Wednesday, May 27, 2009

26/05 'Vì sao họ trả nhiều tiền như thế?'

thứ ba, 26 tháng 5, 2009



Nick McKenzie
Nick McKenzie gia nhập nhóm phóng viên điều tra của The Age năm 2006
Một trong hai nhà báo chính điều tra cáo giác lót tay liên quan tiền polymer nói với BBC rằng đây là một bài học cho các công ty Phương Tây.
Nick McKenzie, cùng Richard Baker của báo The Age, đã mở loạt bài điều tra, trong đó họ cáo buộc Securency, công ty làm giấy nền polymer để in tiền, đã ký các hợp đồng đáng ngờ qua trung gian ở nhiều nước, liên quan đến cả con trai cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cáo buộc tung ra cuối tuần rồi, và Ngân hàng Trung ương Úc - sở hữu 50% cổ phần của Securency - đã yêu cầu Cảnh sát Liên bang Úc vào cuộc.
BBC Việt ngữ đã phỏng vấn phóng viên Nick McKenzie hôm nay 26/05/09:
Nick McKenzie: Chúng tôi có được sự chỉ điểm vài tháng trước từ một nhân vật biết rõ hoạt động của công ty [Securency] và chúng tôi theo dấu đó mà điều tra.
Bài báo mới nhất của chúng tôi ngày hôm nay viết rằng hàng triệu đôla đã được chuyển cho phía Việt Nam như tiền hoa hồng.
Chúng tôi cũng tiết lộ rằng theo một cuộc phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài với một lãnh đạo công ty năm 2007, thì hóa ra các dịch vụ mà công ty môi giới Việt Nam cung cấp khá là bình thường. Vì thế, bài báo đặt câu hỏi mặc dù hàng triệu đôla hoa hồng được trả cho CFTD, nhưng theo mô tả thì những gì mà CFTD cung cấp có đáng đắt tiền thế hay không, ví dụ dịch thuật, đưa đón ở sân bay, đặt khách sạn...
Theo mô tả thì những gì mà CFTD cung cấp có đáng đắt tiền thế hay không, ví dụ dịch thuật, đưa đón ở sân bay, đặt khách sạn...
Nick McKenzie
BBC:Tức là đằng sau danh sách công việc đó là những câu hỏi quan trọng khác?
Nó đặt ra câu hỏi mà Securency cần trả lời: tại sao họ trả nhiều tiền như thế? Nếu có những dịch vụ khác được công ty đó đáp ứng, ví dụ vận động giới chức ngân hàng, thì chúng tôi cần biết rõ nội dung.
Hiện thời chúng tôi đặt câu hỏi số tiền hoa hồng có phản ánh đúng tầm mức công việc của công ty môi giới Việt Nam. Theo tôi, khi trả lời câu hỏi đó, người ta cũng phải ghi nhớ lo ngại của nhiều người trong công ty rằng khi anh làm ăn ở những nước dễ có tham nhũng, anh phải bảo đảm là tiền trả cho bên môi giới cũng ở mức hợp lý thôi. Để giảm bớt nguy cơ là một phần tiền sẽ bị dùng để lót tay cho chính trị gia hay giới chức ngân hàng nhà nước.
BBC:Các ông đã biết về tác động của các bài báo trên The Age đối với truyền thông hay chính phủ ở Việt Nam?
Chúng tôi cũng có quen biết người trong giới báo chí Việt Nam. Rõ ràng có những hạn chế về tự do báo chí ở Việt Nam; tôi đoán nó sẽ tác động đến các vụ điều tra.
Nhưng còn tại Úc, ảnh hưởng đã rất rõ. Cảnh sát liên bang Úc đã mở điều tra công ty sau khuyến nghị của Ngân hàng trung ương Úc. Ngày hôm nay cảnh sát cũng nói với Quốc hội rằng họ xem cuộc điều tra này là nghiêm túc.
BBC: Theo kinh nghiệm của ông, cuộc điều tra sẽ kéo dài bao lâu?
Còn nhiều việc phải làm. Cuộc điều tra của cảnh sát sẽ mất nhiều tháng, có khi lâu hơn. Họ có nhiều quyền lực mà chúng tôi không có. Ví dụ họ có thể kiểm tra những tài khoản nhất định, hay phỏng vấn những người mà chúng tôi không thể phỏng vấn.
BBC:Theo ông, có thể rút ra những bài học gì cho người Úc?
Vấn đề rộng lớn hơn từ chuyện lần này là các công ty và các nước Phương Tây làm ăn ở các nước đang phát triển như thế nào. Họ phải có những biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để không dính vào những hành vi có thể biến thành tham nhũng hay phi đạo đức.
Ít nhất, từ những gì chúng tôi đã thấy, thì nhiều hành vi có lẽ đã không nghiêm ngặt theo đúng chuẩn mực phải có.

26/05 Tiền polymer: '10 triệu AUD' vào tài khoản Thụy Sĩ




Công ty Securency trụ sở tại Melbourne hiện có hợp đồng in tiền cho 26 quốc gia
Công ty Securency trụ sở tại Melbourne hiện có hợp đồng in tiền cho 26 quốc gia.
26 May 2009
Vừa có thêm tiết lộ mới liên quan đến số tiền trao tay đối tác Việt Nam từ công ty Securency của Úc.
Cảnh sát liên bang Úc xác nhận với Ngân hàng Trung ương nước này rằng họ đang điều tra cáo buộc công ty cung cấp vật liệu in tiền polymer Securency của Úc ‘hối lộ' đối tác Việt Nam để giành hợp đồng.
Báo The Age số ra tại Melbourne nói Securency đã trả các khoản tiền hoa hồng lớn, ít nhất 10 triệu AUD, vào tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ của công ty Kỹ thuật và Phát triển, CFTD, trụ sở tại Hà Nội.
Tin nói rằng công ty CFTD có công ty con là BankTech, mà ông Lê Đức Minh, con trai của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy, làm giám đốc.

Sunday, May 24, 2009

23/05 Úc điều tra vụ tiền polymer dính líu Việt Nam

thứ bảy, 23 tháng 5, 2009



Ngân hàng Trung ương Úc nắm một nửa cổ phần của Securency
Cảnh sát liên bang Úc được yêu cầu điều tra theo sau cáo buộc của một tờ báo rằng công ty làm giấy nền polymer để in tiền ký các hợp đồng đáng ngờ qua trung gian ở nhiều nước, liên quan đến cả con trai cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sau khi báo Úc, tờ The Age, chạy bài Đặc Biệt về đề tài này, BBC Tiếng Việt đã liên lạc với Ngân hàng Trung ương Úc hôm 23/05 và được xác nhận là cảnh sát Úc sẽ vào cuộc.
The Age, đặt ở Melbourne, cáo buộc những môi giới viên cho hãng Securency đã "trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTD của Việt Nam, có công ty con Banktech thuộc quyền quản lý của con trai Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam vào lúc ngân hàng trung ương quyết định chuyển sang loại tiền polymer năm 2002".
CFTD là công ty đã tham gia việc thực hiện bộ tiền mới và cung cấp vật tư, thiết bị in tiền ở Việt Nam.
Điều tra năm 2007 của Thanh tra Chính phủ Việt Nam nói việc con trai ông Lê Đức Thúy, Thống đốc NHNN lúc đó, có thời gian làm cho Banktech "tuy không trái quy định của pháp luật, nhưng đã gây nghi ngờ về sự khách quan, minh bạch".
Cảnh sát Úc vào cuộc
Ngày hôm nay, Securency đã ra thông cáo liên quan bài viết trên The Age.
Thông cáo nói: "Một bài báo của The Age hôm nay tố cáo Securency đã trả tiền cho người môi giới mà tiền này lại có thể bị dùng để lo lót cho các viên chức chính phủ nước ngoài."
"Mặc dù The Age không nói Securency dính líu hối lộ, nhưng Ban Quản trị của Securency xem các cáo buộc là nghiêm trọng. Ban Quản trị đã thảo luận cáo buộc với Cảnh sát Liên bang Úc, và chuyển cáo buộc cho Cảnh sát để điều tra."
Securency International Pty Ltd là liên doanh giữa Ngân hàng Trung ương Úc và một công ty đặt ở Anh.
Ban Quản trị đã thảo luận cáo buộc với Cảnh sát Liên bang Úc, và chuyển cáo buộc cho Cảnh sát để điều tra.
Thông cáo ngày 23/05 của Securency
Nói chuyện với BBC Việt ngữ hôm nay, bà Vanessa Crowe, Phòng báo chí của Ngân hàng Trung ương Úc (Reserve Bank of Australia), cho biết Ngân hàng nắm 50% cổ phần của Securency.
Bà nói thêm: "Trước hết, đây là vấn đề cho cảnh sát. Chúng tôi sẽ xem chuyện sẽ diễn tiến ra sao."
Giới chức Ngân hàng vừa làm việc với cảnh sát sáng nay (giờ Úc), và BBC được cho biết cuộc điều tra có thể sẽ bắt đầu ngay trong thứ Hai tuần sau.
Ông Bob Rankin, Chủ tịch của Securency, nói với Reuters qua điện thoại rằng công ty sẽ áp dụng mọi hành động cần thiết nhưng không bình phẩm liệu nó có bao gồm việc cắt đứt quan hệ với đối tác kinh doanh nào không.
Reuters trích lời ông: "Chúng tôi trông chờ báo cáo từ AFP (Cảnh sát Liên bang Úc) sau kết quả điều tra. Dù phát hiện có thế nào cũng sẽ giúp chúng tôi có phản ứng phù hợp."
‘Lo lót'
Hai phóng viên điều tra Richard Baker và Nick McKenzie của The Age viết rằng một số người môi giới của Securency "gần gũi với chính phủ hoặc viên chức ngân hàng trung ương ở các nước bị Transparency International xếp hạng là rất tham nhũng".
Ngoài cáo buộc về Việt Nam, The Age nói những kẻ trung gian đã "trả khoản tiền lớn cho công ty ở London Contec Global, mà công ty này bị cuộc điều tra tham nhũng chính thức của Uganda cáo buộc có quan hệ mờ ám với một bộ trưởng Uganda bị buộc tội ‘ngụy trang và vận động' cho công ty".
Những người môi giới cho Securency cũng bị cáo buộc dính líu các phi vụ hối lộ ở Nam Phi và Ấn Độ.
The Age không ám chỉ Securency "tham gia hối lộ, nhưng hoạt động của hãng với những kẻ môi giới ở những nước dễ xảy ra tham ô dấy lên lo ngại về thủ tục đối phó rủi ro của hãng".
Thông tin liên quan đến tiền polymer một hồi gây xôn xao dư luận Việt Nam
Tờ báo dẫn lời người bên trong Securency nói rằng hãng này đặt ra khoản thù lao cho việc môi giới hợp đồng lên đến 10-20%, trong khi mức tiêu chuẩn chỉ là 2-6%.
Một thông cáo của Securency gửi cho The Age nói hãng này có quy trình nghiêm ngặt khi bổ nhiệm môi giới viên, bao gồm kiểm tra của Ủy ban Thương mại Úc (Austrade) và tuân thủ các công ước chống tham nhũng quốc tế.
Securency nói những người môi giới của họ đều đã ký thỏa thuận nghiêm cấm trả tiền cho các viên chức và chính trị gia nước ngoài.
Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương Úc Ric Battellino nói với The Age rằng ông sẽ yêu cầu Securency phải trả lời ngay về việc sử dụng người môi giới.
Polymer ở Việt Nam
Cáo buộc của báo The Age hâm nóng lại cuộc tranh cãi quanh đồng tiền polymer ở Việt Nam ba năm trước đây.
Một số bài báo trong giai đoạn này chuyển đi các thông điệp rằng tiền polymer chất lượng kém và giá thành cao và đề cập tới sự liên hệ trong khâu in tiền ở một công ty có sự tham gia của ông Lê Đức Minh, là con trai Thống đốc Lê Đức Thúy.
Tháng Mười 2006, ông Lê Đức Thúy, khi đó còn là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đã phải ra thông cáo dài giải thích với công luận.
Ông Lê Đức Thúy nói từ khi phát hành bộ tiền mới, cùng với những kết quả trong đấu tranh với tội phạm buôn bán tiền giả, tình hình tiền giả trong lưu thông đã giảm xuống.
Nhưng thông cáo không nhắc gì đến các tin đồn rằng con trai của thống đốc, ông Lê Đức Minh, có công ty liên quan đến công nghệ in tiền.
Ông Lê Đức Thúy
Điều tra của chính phủ Việt Nam năm 2007 nói có 'nghi ngờ về tính khách quan' của ông Lê Đức Thúy
Khi đó, một đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang, bà Nguyễn Thị Việt Nhân, cáo buộc bà từng nhận được những tài liệu do chính các cán bộ cấp dưới của ông Thúy đưa cho, có cả hình ảnh tố cáo vai trò môi giới của ông Lê Đức Minh, phó giám đốc công ty BankTech.
Đến tháng Sáu 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu ông Lê Đức Thúy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cùng các Phó Thống đốc làm kiểm điểm sau khi có kết luận thanh tra nhiều nội dung tại cơ quan này.
Mặc dù nội dung trong báo cáo thanh tra của của chính phủ nói rằng không thấy có vấn đề về tham nhũng hay gây ra hậu quả xấu về kinh tế thì các cụm từ như phát hiện một số vi phạm, khuyết điểm cũng như việc NHNN không lấy ý kiến cơ quan chức năng là trái với qui định cho người ta thấy phần nào về mức độ nghiêm trọng.
Báo cáo cũng nói đề án Bộ tiền in bằng chất liệu polymer là một công việc được mô tả là hệ trọng của ngân hàng nhưng không được thống đốc Lê Đức Thúy, Bí thư Ban cán sự đảng, đưa ra thảo luận trong tập thể lãnh đạo và chính trong ban cán sự đảng.
Thanh tra kết luận việc sử dụng tiền mới bằng giấy polymer không gây ra hậu quả xấu về kinh tế, tuy vậy, phê bình ông Thúy đã chỉ trình Thủ tướng về dự án tiền giấy polymer trong khi đề xuất của NHNN có nhắc đến lựa chọn giấy cotton.
Báo cáo của thanh tra chính phủ kết luận rằng việc tham gia của con ông Thống đốc, Lê Đức Minh, vào dự án in tiền tuy không trái qui định của pháp luật nhưng đã gây sự nghi ngờ về tính khách quan, minh bạch của Thống đốc Lê Đức Thúy.
BBC sẽ tiếp tục theo dõi, cập nhật diễn tiến cuộc điều tra và ghi nhận phản ứng từ phía nhà chức trách Việt Nam về vụ việc. Độc giả có thông tin, xin gửi thư cho BBC ở vietnamese@bbc.co.uk.

Sunday, May 17, 2009

17/05 BÁ QUYỀN VĂN HÓA ĐE DỌA VIỆT NAM


[17.05.2009 23:01 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) Nhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
Diễn viên Trương Quốc Lập trong vai Càn Long (phim "Tể tướng Lưu Gù"), Kỷ Hiểu Lam ("Bản lĩnh Kỷ Hiểu Lam") và một loạt phim "giai điệu chủ" khác
* "Giai điệu chủ"
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1987...
Tháng 3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước. Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc và thế giới.
Chính sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu chủ":
• Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ";
• Dòng phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)
• Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quít chín", "Gia tộc Kim Phần"…)
• Dòng phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)
• Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)
Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.
Đặc biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu, nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia trong khu vực.
Trong số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).
Phần lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác giữa các đài truyền hình hai nước.
* Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"
Song song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình, sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.
Bất chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng. 
 
Với nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác, Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu" (Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.
Lý Mỹ Kỳ (Maggie Q), mẹ là người Việt, cha mang quốc tịch Mỹ, sinh tại Hawaii, nhưng vẫn bị đa số khán giả Trung Quốc nghĩ là người Hoa
Các ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử Quỳnh, Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam) là người đại lục.
Trung Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.
* Điều gì nằm sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc?
Một nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh hưởng ít ỏi ở thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.
Chẳng riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary, Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-19, những mối quan hệ kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và truyền thông bắt đầu lên ngôi.
Bên cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình thức bá quyền chủ yếu.
Pháp và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này. Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes của Tây Ban Nha.
Và đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam. Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như thế nào.
Ngay trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng phải kiêng nể.
Điều này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như thế.
Khái niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới ra đời (1). Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.
* Vấn đề đến từ phía những kẻ "bị xâm lăng"
Bá quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần của những kẻ bị bá quyền.
Riêng trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền.
Như thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.
Điều đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.
Việt Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc, theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung Quốc.
Theo một thống kê (3) được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu sách.
Từ năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là "tiền đồn".
Đã đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10 triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc (2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng Hải.
Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?
(1) Khái niệm “bá quyền văn hóa” (cultural hegemony) do Antonio Gramsci (1891 - 1937) - triết gia chính trị, sáng lập viên Đảng Cộng sản Ý - đưa ra từ những năm 30 của thế kỷ trước. Gramsci cho rằng, để có được và duy trì quyền lực chính trị, giai cấp vô sản phải thực hiện bá quyền văn hóa, phải có tiếng nói thống trị trong truyền thông đại chúng và giáo dục, cũng như phải tiến hành kiểm soát toàn diện trên bình diện tư tưởng và tín ngưỡng.
(2) Đầu tháng 4, Văan phòng Chính phủ đã có công văn số 1992/VPCP-QHQT gửi Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập thí điểm một học viện Khổng Tử tại Việt Nam.
Học viện này có chức năng đào tạo tiếng Trung, tư vấn du học, tổ chức các hoạt động văn hóa. Trung Quốc có kế hoạch thiết lập khoảng 100 học viện Khổng Tử tại nhiều nước nhằm mục đích phổ biến văn hóa Trung Hoa ra thế giới.
Truyền bá văn hóa của đất nước mình là điều bất kỳ chính phủ nào cũng nên làm. Vấn đề chỉ là làm sao để có sự trao đổi văn hóa song phương và mọi quan hệ đều là hợp tác tương hỗ.
(3)   Số liệu lấy từ bài "Trung Quốc tăng cường trao đổi văn hóa" trên "China Daily". Báo "Người đại biểu nhân dân" dịch và đăng lại, 26-12-2006.
Đoan Trang