Tuesday, February 22, 2011

13/12/2010 Hệ tại chức đã bị biến tướng

Thứ Hai, 13/12/2010, 06:05 (GMT+7) Gặp gỡ đầu tuần:

TT - Trao đổi với Tuổi Trẻ, GS Phạm Minh Hạc - nguyên bộ trưởng Bộ Giáo dục - đã nhận xét một cách ngắn gọn về thực trạng đào tạo hệ tại chức là “xô bồ, lỏng lẻo và tùy tiện”.

Buổi học sáng 12-12 của lớp dqk2085 ngành quản trị kinh doanh năm 2 hệ tại chức Trường đại học Sài Gòn - Ảnh: Như Hùng

GS Phạm Minh Hạc - Ảnh: Vĩnh Hà

GS Phạm Minh Hạc khẳng định:

- Mở rộng các hình thức đào tạo khác nhau nhằm tạo điều kiện cho nhiều người được học, hướng tới xây dựng một xã hội học tập suốt đời là một hướng đi đúng. Nhưng vấn đề đào tạo tại chức hiện nay không ổn do sự lệch lạc trong động cơ của người dạy, người học và của cơ sở đào tạo. Nhiều trường hiện nay cố gắng phình to quy mô đào tạo tại chức chỉ với mục đích tăng thu nhập. Có những trường đại học trống vắng giảng viên giỏi vì mải mê chạy theo tại chức, trong khi “trận địa” là đào tạo chính quy và trách nhiệm nghiên cứu khoa học.

Tình trạng này không chỉ khiến “tại chức” có vấn đề mà “chính quy” cũng bị ảnh hưởng. Định mức tiết dạy của giảng viên khoảng 300 tiết/năm thì thực tế nhiều giảng viên đã dạy đến 1.000 tiết/năm. Dạy nhiều thế trong khi điều kiện tối thiểu để đảm bảo chất lượng như giáo trình, tài liệu, thiết bị hỗ trợ dạy học không có, thời gian của người học bị hạn chế thì chất lượng tại chức kém là đương nhiên.

Quy mô tăng chóng mặt!


Hệ tại chức chủ yếu phục vụ người chạy theo bằng cấp

“Mục đích ban đầu của hệ đào tạo tại chức là nâng cao, bổ sung kiến thức cho những người đã có thâm niên làm việc cũng bị biến tướng, “tại chức” hiện nay chủ yếu phục vụ những đối tượng chạy theo bằng cấp, bằng mọi cách để có tấm bằng xin việc, có bằng để hợp thức hóa các quy định về tuyển dụng”.

GS Phạm Minh Hạc
* Theo GS, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, của các cơ sở đào tạo như thế nào với những bất ổn trong đào tạo tại chức? Vì sao tình trạng chất lượng tại chức yếu kém kéo dài nhưng không thể khắc phục, thậm chí còn có dấu hiệu xấu hơn?

- Tôi nghĩ trách nhiệm lớn nhất thuộc về Bộ GD-ĐT. Tôi chỉ nói cụ thể ở việc bung ra về số lượng trong đào tạo tại chức. Cách đây khoảng tám năm, khi tôi còn ở ban khoa giáo T.Ư (GS Phạm Minh Hạc là nguyên phó ban khoa giáo T.Ư - PV), chúng tôi đã trực tiếp tổ chức khảo sát và bất ngờ vì có đến 40 vạn sinh viên tại chức trong tổng số 70-80 vạn sinh viên.

Với kết quả khảo sát này, chúng tôi đã cảnh báo về quy mô đào tạo tại chức và có một kiến nghị yêu cầu Bộ GD-ĐT phải chấn chỉnh ngay việc giao chỉ tiêu tại chức cho các cơ sở đào tạo. Nhưng thực tế, quy mô tại chức sau tám năm còn tăng chóng mặt. Theo số liệu do Ủy ban Thường vụ Quốc hội cung cấp tháng 4-2010, cả nước đã có gần 1 triệu sinh viên hệ tại chức, trong khi tổng số sinh viên nói chung có khoảng 2 triệu. Việc quy mô tại chức gần bằng 50% so với quy mô đào tạo chung là việc không thể chấp nhận được.

Bộ GD-ĐT giao chỉ tiêu đào tạo cho các cơ sở nhưng đã không cân nhắc, đặc biệt không kiểm soát được việc đảm bảo các điều kiện để bảo toàn chất lượng của các cơ sở này. Sự buông lỏng từ phía cơ quan quản lý nhà nước chính là nguyên nhân làm gia tăng và kéo dài tình trạng đào tạo kém chất lượng của hệ tại chức.

Bên cạnh đó, cũng cần xem xét trách nhiệm của hiệu trưởng, những người đứng đầu các cơ sở đào tạo tại chức trong việc chạy theo mục tiêu “tăng thu nhập” mà bỏ qua chất lượng, gây tác hại lâu dài sau này.

Hiệu trưởng sai phải bị cách chức

* Theo GS, cần có những giải pháp cụ thể nào, trong đó giải pháp nào cần làm ngay, làm quyết liệt để hạn chế việc đào tạo tràn lan, kém chất lượng?

- Không thể đơn lẻ thực hiện một vài việc mà mong giải quyết được tình trạng này, trong đó cơ quan quản lý giáo dục, các trường, cơ quan tuyển dụng lao động đều phải cùng vào cuộc với một loạt giải pháp liên hoàn. Nhưng trong đó vai trò quan trọng nhất, trách nhiệm lớn nhất và khả năng giải quyết đều nằm ngay trong tay của Bộ GD-ĐT là cơ quan quản lý và các trường đại học, là đơn vị thực hiện.

Bộ GD-ĐT phải nghiêm khắc xem xét lại việc giao chỉ tiêu đào tạo, không nên chạy theo số lượng đào tạo không chính quy để đạt được mục tiêu về số sinh viên/vạn dân khi các trường đại học chưa thể đủ lực mở rộng đào tạo chính quy. Việc giao chỉ tiêu đào tạo phải được cân nhắc kỹ trên cơ sở thực lực của các cơ sở, không phải cơ sở nào cũng có thể đào tạo tại chức.

Theo quan điểm của tôi, chỉ nên cho phép một số trường đại học được đào tạo tại chức. Và Bộ GD-ĐT cần xem lại quy định về đối tượng người được học tại chức. Tôi cho rằng nên duy trì quy định trước đây là chỉ cho phép người đã có thâm niên làm việc một vài năm mới được học tại chức.

Bộ GD-ĐT phải có quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm túc việc xử lý các cơ sở đào tạo làm trái, trong đó người chịu trách nhiệm chính trong việc đào tạo tại các cơ sở là hiệu trưởng. Cụ thể, cơ sở làm sai phải bị cắt chỉ tiêu, cấm đào tạo, hiệu trường làm sai có thể sẽ bị cách chức. Nếu phải nhận trách nhiệm rõ ràng, hiệu trưởng sẽ phải có các biện pháp để kiểm soát việc giảng dạy của giảng viên, việc tổ chức dạy học...

Trước mắt, Bộ GD-ĐT nên xem xét đề nghị các cơ sở đào tạo tách hẳn khâu kiểm tra, đánh giá, độc lập với hoạt động giảng dạy. Có nghĩa thầy dạy cứ dạy, nhưng việc tổ chức thi, ra đề, chấm thi do một bộ phận độc lập. Giải pháp này sẽ khiến học viên không thể ỉ lại vào việc “nâng đỡ” của thầy, muốn có bằng thật phải học thật.

Cách làm của Đà Nẵng chưa hợp lý

* GS có cho rằng việc đổi mới quan điểm tuyển dụng cũng là một giải pháp mạnh có thể làm chuyển biến chất lượng đào tạo tại chức?

- Hiện nay có nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, cơ sở tư nhân đã thực hiện việc tuyển dụng lao động căn cứ vào năng lực thực tế chứ không chỉ căn cứ vào bằng cấp. Việc xếp lương, thăng chức trong những cơ sở này cũng liên quan đến năng lực làm việc, quá trình cống hiến thực tế của người lao động. Cách tuyển dụng như vậy bắt buộc người lao động muốn trụ được phải học thật sự, không chỉ học ở cơ sở đào tạo mà phải học cả trong quá trình làm việc.

Vấn đề nặng về bằng cấp hiện nay chủ yếu ở khu vực cơ quan hành chính sự nghiệp, do cơ chế tuyển dụng, cơ chế đãi ngộ đều được xem xét trên cơ sở bằng cấp. Việc này đã khiến một bộ phận cán bộ công chức chạy theo bằng cấp, hợp thức hóa bằng cấp để có chỗ làm trong cơ quan nhà nước và thăng tiến. Và cách nhanh hơn, dễ dàng hơn là đăng ký học để lấy tấm bằng tại chức. Nhiều bạn trẻ không đủ khả năng thi đậu vào các cơ sở đào tạo hệ chính quy cũng chọn cách học tại chức để có bằng cộng với quan hệ đi bằng “cửa sau” để xin việc.

Thay đổi quan điểm về tuyển dụng sẽ giúp các cơ sở cần tuyển dụng lao động tuyển được đội ngũ có chất lượng và cũng gián tiếp làm thay đổi động cơ của người học. Người học muốn học thật thì người dạy, cơ sở dạy cũng phải lựa chọn hướng cạnh tranh về chất lượng để thu hút được người học.

* Như vậy GS có ủng hộ quan điểm của lãnh đạo Đà Nẵng trong chủ trương không tuyển dụng người tốt nghiệp tại chức?

- Tôi ủng hộ Đà Nẵng về chủ trương, đánh giá cao ý tưởng của địa phương này muốn sàng lọc để có một đội ngũ cán bộ có chất lượng. Nhưng tôi thấy cách làm của Đà Nẵng chưa hợp lý. Theo Luật giáo dục, bằng chính quy hay không chính quy đều được công nhận. Việc mở rộng các hình thức đào tạo khác nhau cũng có những lợi ích nhất định. Vì vậy việc tuyển dụng theo kiểu “phân biệt bằng cấp” thì không hay.

Có nhiều cách làm hay hơn để đạt được mục đích trên. Ví dụ ngoài yếu tố bằng cấp, cơ quan tuyển dụng cần thực hiện việc thi tuyển, phỏng vấn trực tiếp đối với các ứng viên, không phân biệt người có bằng tại chức hay chính quy. Sau khi được tuyển, những người được chọn vẫn phải trải qua quá trình thử việc, tập sự và phải chấp nhận cơ chế đào thải bằng các đánh giá thường xuyên hoặc định kỳ về năng lực, hiệu quả làm việc, các cống hiến thực tế...

THANH HÀ - VĨNH HÀ thực hiện

22/02 Sở GD-ĐT đánh giá điều kiện mở ngành của trường ĐH, CĐ

Thứ Ba, 22/02/2011, 03:27 (GMT+7)

TT - Được xem xét mở ngành đào tạo trình độ ĐH khi bảo đảm các điều kiện: có đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm nhận giảng dạy tối thiểu 70% chương trình đào tạo, trong đó có ít nhất một tiến sĩ và ba thạc sĩ, có chương trình đào tạo và đề cương chi tiết của các học phần/môn học, có cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm đáp ứng yêu cầu của ngành đào tạo trình độ ĐH...


Đó là nội dung quy định mới về điều kiện, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo ĐH, CĐ vừa được Bộ GD-ĐT ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 3-4-2011. Cùng với quy định mới này, Bộ GD-ĐT cho biết sẽ nối lại việc tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và cho phép các trường ĐH, CĐ mở ngành đào tạo mới sau gần một năm tạm dừng.

Một điểm mới trong quy trình mở ngành đào tạo ĐH, CĐ là việc kiểm tra và xác nhận các điều kiện thực tế về đội ngũ giảng viên, trang thiết bị phục vụ đào tạo, thư viện của cơ sở đào tạo xin mở ngành sẽ do sở GD-ĐT sở tại đảm nhận.

Các trường ĐH, CĐ muốn xin mở ngành phải gửi hồ sơ đến sở GD-ĐT nơi trường đặt trụ sở đề nghị kiểm tra thực tế và xác nhận các điều kiện kể trên. Đây là lần đầu tiên sở GD-ĐT được giao nhiệm vụ kiểm tra, thẩm định, đánh giá năng lực đào tạo của các trường ĐH, CĐ.

Cũng theo quy định này, các cơ sở đào tạo sẽ bị đình chỉ tuyển sinh ngành đào tạo khi không đảm bảo một trong các điều kiện theo quy định mở ngành hoặc không tuyển sinh được trong ba năm liên tiếp, tổ chức tuyển sinh và đào tạo ngoài địa điểm được phép đào tạo hoặc người cho phép mở ngành không đúng thẩm quyền, bị xử phạt hành chính ở mức độ phải đình chỉ.

T.HÀ

22/02 Chậm tổng hợp danh mục thủ tục hành chính: 14 bộ bị nhắc nhở

Thứ Ba, 22/02/2011, 04:17 (GMT+7)

TT - Thủ tướng Chính phủ vừa yêu cầu 14 bộ và ba cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chưa thực hiện đúng ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về việc tổng hợp danh mục thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.

Các bộ, cơ quan nêu trên gồm: Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (gửi không đúng hạn); Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - thương binh và xã hội, Bộ Giáo dục - đào tạo, Bộ Kế hoạch - đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch, Bộ Tư pháp, Bộ Công thương, Bộ Thông tin - truyền thông, Bộ Tài nguyên - môi trường, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Dân tộc (chưa gửi danh mục).

Trước đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giao các bộ, cơ quan trên tổng hợp danh mục thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của mình, trong đó phân định rõ các thủ tục hành chính được giải quyết tại các cấp chính quyền. Công việc này phải hoàn thành trước 15-12-2010.

V.V.T.

10/02 Financial Times: Môi trường đầu tư tại Đà Nẵng tốt nhất Việt Nam

Thứ 5, 10/02/2011, 15:33

Tương phản với Hà Nội, Hồ Chí Minh luôn chật chội đông đúc, Đà Nẵng rộng rãi, thoáng mát với nhiều đại lộ, đường vành đai, cây cầu tồn tại trong quy hoạch hoàn hảo.

Khi nói đến đầu tư, người ta thường hay nghĩ đến Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Financial Times cho rằng nhà đầu tư nên chú ý đến Đà Nẵng.

Đà Nẵng, thành phố đông dân thứ 4 tại Việt Nam, đã tăng trưởng bùng nổ trong những năm gần đây nhờ yếu tố địa lý thuận lợi được núi rừng bao phủ và bãi biển trải dài.

Cảnh quan thiên nhiên đẹp đã khiến dịch vụ du lịch khách sạn bùng nổ tại đây. Hàng loạt khu nghỉ, villa, sân golf được xây dựng dọc bờ biển. Ngoài ra còn rất nhiều nhà máy được thành lập tại đây để tận dụng lợi thế nằm ở trung tâm Việt Nam của Đà Nẵng.

Ông Peter Ryder, giám đốc điều hành tại Indochina Capital, tổ chức đầu tư với nhiều dự án tại Đà Nẵng, cho rằng thành công của Đà Nẵng có sự đóng góp không nhỏ của ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Ông nói: “Đà Nẵng thường được coi như nơi để làm ăn kinh doanh tốt nhất tại Việt Nam. Đà Năng có cơ sở hạ tầng tốt hơn bất kỳ khu vực đô thị lớn nào tại Việt Nam, tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cao hơn nhiều khu vực khác ở Việt Nam. Nguyễn Bá Thanh có thể được ví như Lý Quang Diệu của Việt Nam.”

Cũng giống như thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế chính của Việt Nam, kinh tế Đà Nẵng tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ qua ở mức khoảng 7%.

Từ năm 2006 – 2010, kinh tế thành phố Đà Nẵng tăng trưởng khoảng 11%/năm và chính quyền thành phố này đang đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 13,5 đến 14.5%/năm trong 5 năm tới.

Tương phản với thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh luôn chật chội đông đúc, thành phố Đà Nẵng với 900 nghìn dân rộng rãi, thoáng mát với nhiều đại lộ, đường vành đai và những cây cầu tồn tại trong quy hoạch hoàn hảo.

Cơ sở hạ tầng này đang giúp Đà Nẵng thu hút được lượng du khách lớn cũng như các công ty bất động sản.

Căn hộ nhỏ ở các khu ven biển hiện đang được bán khoảng 100 nghìn USD/căn, thời hạn sở hữu 50 năm. Trong khi đó villa sang trọng ở mức giá khoảng 1 triệu USD.

Phần lớn người mua nhóm căn hộ này đến từ Hà Nội (người Hà Nội hay trả bằng tiền mặt) và từ thành phố Hồ Chí Minh (thường sử dụng dịch vụ tín dụng).

Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng quá nhanh của Đà Nẵng đã khiến người ta lo lắng về sự phát triển quá mức. Nhiều dự án đã bị đình chỉ do thiếu vốn, nhiều chuyên gia chỉ ra một số nhà đầu cơ chỉ muốn găm đất và sau đó bán kiếm lợi nhuận cao.


Ngọc Diệp
Theo Financial Times

20/02 Sông Mekong: Con rồng bị cắt khúc

Chủ nhật, 20/02/2011, 22:24

Hàng năm sự tổn thất riêng về cá trắng đối với ĐBSCL sẽ là 11000 đến 22000 tỉ đồng, hoặc từ 500 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm

Hiện nay các quốc gia ở vùng hạ lưu vực Sông Mekong đang có kế hoạch xây dựng 12 đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong. Đối với đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), phần cuối nguồn của sông, chắc chắn sẽ bị tác động rất nghiêm trọng đến mọi mặt: môi trường, kinh tế, xã hội, và văn hóa…Hàng năm sự tổn thất riêng về cá trắng đối với ĐBSCL sẽ là 11000 đến 22000 tỉ đồng, hoặc từ 500 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm

Ngày 22.2 tới, cuộc họp tham vấn cấp quốc gia sẽ diễn ra tại Hạ Long để đóng góp cho quyết định đắp hay không đắp đập Xayabury, đập thuỷ điện đầu tiên ở Lào. Nếu Xayabury được thông qua sẽ tạo tiền lệ cho toàn bộ 11 còn.

Mất nhiều hơn được

Chúng ta cần nhớ rằng, dòng không phải chỉ là nước mà là một hệ bao gồm dòng chảy, đất đai, động thực vật và con người. Mỗi sự thay đổi của dòng sông gây ra những thay đổi về số lượng, chất lượng, và thời gian của dòng chảy sẽ dẫn đến những thay đổi lên toàn bộ hệ thống và ảnh hưởng đến đời sống con người. Trong số 12 đập, 10 đập sẽ chắn ngang toàn bộ dòng sông, trong đó có đập dài đến 18km như đập Sambor ở Campuchia.

Các đập này là “đập dâng” (run of river dam) tức là không có hồ chứa thực sự, mà tạo ra một đoạn ngập trên sông khoảng 150km cho mỗi đập. Trong mùa lũ thì nước sẽ đi ngang qua đập trong ngày nhưng trong mùa khô thì thời gian tích nước tối đa có thể đến 3 tuần. Nếu tất cả các đập này được xây thì khoảng 55% tổng chiều dài 1750km của đoạn Hạ lưu sông Mekong từ một dòng sông sống sang một loạt hồ. Ở những nơi nước chảy chậm này, hệ sinh thái sông sẽ biến thành hệ sinh thái hồ.

Mười hai đập này sẽ được vận hành bởi các nhà đầu tư khác nhau và việc điều phối vận hành các đập này để phục vụ lợi ích cư dân ở vùng hạ lưu của các đập là chuyện không tưởng. Vì các đập thủy điện này là dạng đập dâng, cho nước chảy qua trong ngày trong mùa lũ, nên sẽ không có khả năng cắt lũ và giúp làm tăng dòng chảy mùa khô.

Ngược lại, trong mùa khô các đập này có thể tích nước ngắn hạn và xả ra để phát điện nên có thể tạo ra sự kiệt nước trong thời gian ngắn và sự giao động nhanh chóng của mực nước ở vùng hạ lưu tùy theo sự tích và xả nước của các đập này. Ranh giới mặn đối với ĐBSCL vào mùa khô có thể dịch chuyển lên xuống nhanh chóng vào mùa khô và vì vậy hệ sinh thái và hệ thống canh tác sẽ khó thích nghi.

Theo báo cáo của nhóm chuyên gia Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), Việt Nam và Thái Lan là thị trường chính của các đập này. Khoảng 90% tổng lượng điện của các đập này là được thiết kế để bán sang Thái Lan và Việt Nam. Đến 2025 lượng điện mua được từ các đập này sẽ thỏa mãn 4.4% nhu cầu năng lượng của Việt Nam hay nói cách khác là phải cần có 23 dòng sông Mekong thì mới thỏa mãn nhu cầu điện của Việt Nam.

Nếu xét tổng lợi ích về năng lượng, báo cáo ĐMC cho rằng Việt Nam sẽ hưởng lợi 5% từ tổng lợi ích của 12 đập này. Như vậy, lợi ích về điện năng và tổng lợi ích kinh tế của 12 đập thủy điện này đối với Việt Nam là rất nhỏ.

Mất hàng tỉ USD mỗi năm

Sông Mekong có sản lượng cá nội địa lớn nhất thế giới, khoảng 2.6 triệu tấn đánh bắt hàng năm. Cá sông Mekong bao gồm hai phần ba là cá trắng và một phần ba là cá đen. Thông thường, cá trắng là các loài cá di cư. Cá trưởng thành di chuyển lên phía thượng lưu để sinh sản và trứng, cá con, và cá trưởng thành di chuyển xuống hạ lưu để tìm thức ăn và sinh trưởng.

Các đập thủy điện sẽ tạo ra những bức tường thành mà cá không thể vượt qua được. Các loài cá trắng di cư của sông Mekong sẽ có nguy cơ tuyệt chủng. Công nghệ “cầu thang cá” của châu Âu được các nhà đầu tư đưa ra để giúp cá đi qua đập thủy điện là hoàn toàn không phù hợp với cá sông Mekong vì cá sông Mekong thường có kích thước nhỏ và đa dạng về loài. Cá muốn vượt qua được cầu thang cá thì phải tìm được lối vào cầu thang, đủ sức vượt lên độ cao của đập, có nơi cao đến 76 mét như đập Pak Beng ở Lào.

Chỉ tính riêng phần ĐBSCL, hàng năm sẽ có khoảng 220.000 đến 440.000 tấn cá trắng bị rủi ro, chưa tính đến lượng cá đen ăn cá trắng để tồn tại. Nếu tính trung bình giá cá trăng là 50,000 đồng một kg, hàng năm sự tổn thất riêng về cá trắng đối với ĐBSCL sẽ là 11000 đến 22000 tỉ đồng, hoặc từ 500 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm.

Tổn thất này là vĩnh viễn và không phục hồi được và chỉ riêng tổn thất này đã có thể lớn hơn lợi ích về năng lượng do các đập này mang lại… Việc mất thủy sản tự nhiên sẽ làm cho lợi nhuận của thủy sản nuôi sụt giảm nghiêm trọng.

Ngoài ra, ngăn sông đáp đập còn ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản biển. Hệ sinh thái sông Mekong không phải kết thúc ở cửa sông. Hàng năm phù sa sông Mekong đổ ra biển ở Việt Nam cung cấp dinh dưỡng cho một vùng biển rộng lớn tạo nên năng suất thủy sản biển. Số liệu của Cục thống kê cho thấy sản lượng thủy sản biển đánh bắt của ĐBSCL vào năm 2009 ước lượng vào khoảng 606.500 tấn. Sự giảm phù sa sông Mekong, năng suất thủy sản của vùng ven bờ biển ĐBCSL sẽ suy giảm.

Hiện nay chưa có nghiên cứu nào đưa ra ước lượng sự tổn thất về thủy sản biển đối với ĐBSCL do sự giảm phù sa sông Mekong. Sự giảm năng suất thủy sản biển sẻ ảnh hưởng lớn đến ngành đánh bắt thủy sản biển và đời sống ngư dân ĐBSCL và ảnh hưởng đến ngành nuôi thủy sản nội địa vì giảm nguồn bột cá biển làm thức ăn cho thủy sản nuôi.

Tổn thất vĩnh viễn

Tổn thất vì ngăn sông xây thuỷ điện là vĩnh viễn, không phục hồi được và còn quá nhiều điều chưa chắc chắn. Các tổn thất gây ra do các đập thủy điện dòng chính Mekong sẽ là vĩnh viễn và không thể phục hồi được. Các biện pháp để tránh, khắc phục, và đền bù các thiệt hại thì rất hạn chế, tốn kém, chưa chắc có hiệu quả, và đòi hỏi phải có những cơ chế minh bạch, công bằng, và sự đồng thuận.

Tổn thất về phù sa

Theo định luật bảo toàn năng lượng, việc lấy đi đến 14,000MW năng lượng dòng sông cho việc sản xuất điện sẽ chắc chắn ảnh hưởng đến chế độ thủy văn và phù sa của Sông Mekong. Hàng năm lượng phù sa về ĐBSL là 160-165 triệu tấn. Theo báo cáo ĐMC, nếu toàn bộ 12 đập này đựơc xây thì trong tương lai, lượng phù sa về ĐBSCL hàng năm sẽ chỉ cón 1/4 hiện nay, tức còn khoảng 42 triệu tấn/năm.

Giảm phù sa, nguồn phân bón tự nhiên, sẽ đồng nghĩa với tăng chi phí sản xuất nông nghiệp và gia tăng sạt lở bờ sông.

Lợi ích về năng lượng thì rất dễ tính toán từ công suất thiết kế của các đập nhưng những tổn thất thì rất khó định lượng vì tổn thất xảy ra trên một vùng rộng lớn và rất nhiều người, trong đó người nghèo phụ thuộc vào tài nguyên dòng sông sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Trong khi Lào, Thái Lan và Campuchia cũng sẽ có những thiệt hại đáng kể do tác động của các đập này, ĐBSCL của Việt Nam ở cuối vùng hạ lưu sẽ bị thiệt hại nhiều nhất.

Hiện nay còn một danh sách dài những tổn thất đối với có thể có đối với ĐBSCL nhưng chưa định lượng được. Ví dụ, tổn thất về thủy sản tự nhiên nội địa, thủy sản biển, thủy sản nuôi, năng suất nông nghiệp, sạt lở bờ sông, sự sụt lún của đồng bằng do thiếu phù sa, sự dịch chuyển khó đoán của ranh giới mặn trong mùa khô, tác động lên ngành du lịch, và tác động dây chuyền lên các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ thuộc vào nông nghiệp và thủy sản.

Ngoài ra, trong tình huống có thiên tai như động đất thì sẽ có nguy cơ vỡ đập. Không thể có đập nào an toàn 100% không thể vỡ. Một khi một đập bị vỡ thì có thể kéo theo hàng loạt đập khác bên dưới bị vỡ và tác hại đối với vùng bên dưới đập là không thể lường được.

Đơn cử một ví dụ, trong số 12 đập thì đập Sambor ở gần ĐBSCL nhất có chiều cao thiết kế là 56 mét từ đáy sông lên đỉnh đập, chiều dài của đập chắn ngang sông là 18km, tạo ra một vùng ngập 620km2 ở phía trên đập ở mực nước có cao trình 40m trên mực nước biển.

Trong khi đó, ĐBSCL chỉ cao hơn mực nước biển là 1 mét. Nếu có một trận động đất hoặc một nguyên nhân nào đó gây vỡ đập này thì khối nước khổng lồ 465 triệu mét khối này sẽ gây ra tác hại vô cùng to lớn đối với ĐBSCL…

Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện

Chuyên gia độc lập, thành viên nhóm chuyên gia Đánh giá môi trường chiến lược các đập thủy điện dòng chính Mekong thuộc Ủy hội Mekong quốc tế (MRC)

Nguồn SGTT

11/02 Cựu Chủ tịch QH: Ba vấn đề cốt lõi khi sửa Hiến pháp

Tác giả: Nguyễn Văn An
Bài đã được xuất bản.: 11/02/2011 06:00 GMT+7

Cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An hi vọng lần sửa đổi Hiến pháp này sẽ bàn kĩ 3 vấn đề cốt lõi: Dân được quyền phúc quyết Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp để đúng nghĩa là người chủ đất nước; Quyền của nguyên thủ quốc gia cần được tập trung hơn; Phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước cần được cân bằng hơn để phòng ngừa lạm quyền và thoái hóa quyền lực.

LTS: Văn kiện Đại hội Đảng XI vừa qua đã nêu rõ chủ trương sửa Hiến pháp theo hướng đổi mới nhận thức về nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp một cách rành mạch và kiểm soát lẫn nhau, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia...

Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường mới đây khẳng định: đã đến thời điểm chín muồi để sửa đổi Hiến pháp và tư tưởng pháp quyền buộc phải có cách thức viết Hiến pháp khác, không thể "ôm đồm", "dài dòng" như hiện nay. Ông cho rằng, đổi mới nhận thức về nhà nước pháp quyền chính là cơ sở chính trị để các học giả, nhà nghiên cứu hiến kế cho việc xây dựng một bản hiến pháp theo đúng nghĩa hiến pháp của một nhà nước pháp quyền.

Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam lược ghi lại
cuộc trò chuyện với nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An về việc tu chính Hiến pháp 1992 sắp tới.

>> Thời điểm chín muồi sửa Hiến pháp

Dân phải được phúc quyết Hiến pháp

Sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội sinh hoạt chính trị dân chủ sâu rộng trong toàn dân, toàn dân có được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ tham gia ý kiến và phúc quyết hay không?

Nếu nhân dân được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi hy vọng là như vậy.

Nếu nhân dân không được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì chúng ta lại bỏ lỡ mất cơ hội vô cùng quan trọng.

Kinh nghiệm các lần sửa đổi Hiến pháp trước đây là như vậy. Chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi song chưa đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân, nhân dân chưa có quyền phúc quyết Hiến pháp mà lẽ ra quyền phúc quyết Hiến pháp là quyền đương nhiên của người dân dưới chế độ dân chủ cộng hòa.

Trước tiên tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu. Nếu tính từ năm 1946 đến 1992 là 46 năm, ta đã sửa đổi lớn 3 lần vào các năm 1959, 1980 và 1992. Đó là chưa kể nhiều lần chúng ta sửa đổi nhỏ khác.

Sửa đổi như vậy là nhiều lần rồi, song dân chưa được phúc quyết lần nào. Hiến pháp 1946 quy định dân phúc quyết Hiến pháp song dân cũng chưa được phúc quyết vì chiến tranh đã xảy ra ngay sau đó.

Còn Hiến pháp sửa đổi 1959 lại quy định Quốc hội có quyền lập Hiến và lập Pháp. Thay đổi quan trọng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bất khả kháng là đất nước trong tình trạng chiến tranh và chia cắt hai miền Nam - Bắc; rồi chịu ảnh hưởng của mô hình cộng hòa Xô Viết,...

Tuy vậy, chúng ta cần hiểu bản chất của thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa là quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.



Nguyên Chủ tịch QH Nguyễn Văn An.


Cho nên, không thể đặt Hiến pháp ngang hàng với các bộ luật khác do Quốc hội thông qua. Hiến pháp là bộ luật cơ bản, luật gốc, luật mẹ được Quốc hội lập hiến thông qua và nhân dân phúc quyết nên rất ổn định, đặc biệt là những vấn đề cơ bản của Hiến pháp, như thể chế chính trị, ai là chủ đất nước, quyền của người chủ đất nước là những gì; ai là nguyên thủ quốc gia, quyền của nguyên thủ quốc gia là những gì?; vấn đề phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước...

Ai là chủ đất nước?


Thứ hai, tôi cho rằng các lần sửa đổi Hiến pháp sau này có một vài vấn đề cốt lõi lại xa rời hoặc lại không rõ ràng bằng Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Có nhiều vấn đề, ở đây tôi chỉ đề cập tới 3 vấn đề cốt lõi:

Đầu tiên, Hiến pháp phải làm rõ AI LÀ CHỦ ĐẤT NƯỚC? NGƯỜI CHỦ ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ? Với câu hỏi này, có thể nhiều người sẽ nói ngay rằng Dân làm chủ chứ ai. Đúng. Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp và Pháp luật của nhà nước đều khẳng định như vậy. Quốc hiệu của Việt Nam đã ghi rất rõ: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Thể chế chính trị là Dân chủ Cộng hòa, khác hoàn toàn với Quân chủ.

Do vậy, người chủ đất nước không phải là Vua nữa mà chính là Dân (không phân biệt thành phần, giới tính, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo...).

Song quy định cụ thể về quyền làm chủ trực tiếp của người dân thì còn quá ít, nhất là quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì các Hiến pháp sửa đổi sau này lại ghi khác hoàn toàn với Hiến pháp năm 1946:

Điều 21 của Hiến pháp 1946 quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều 32 và Điều 70".

Điều 32 của Hiến pháp 1946 quy định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phúc quyết, nếu 2/3 tống số nghị viện đồng ý".

Điều 70 của Hiến pháp 1946 quy định: "Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây... Khi được nghị viên ưng chuẩn, phải đưa ra toàn dân phúc quyết".

Những quy định trên đây của Hiến pháp 1946 có nghĩa rằng quyền lập Hiến hoàn toàn thuộc về toàn dân, thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.

Hiến pháp 1946 không có một điều nào, một ý nào quy định quyền lập Hiến thuộc về Quốc hội.

Các Hiến pháp sửa đổi sau này laị quy định Quốc hội có quyền lập Hiến:

Điều 43, 44 và 50 của Hiến pháp 1959 ghi: "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", là cơ quan duy nhất "có quyền lập Pháp", có quyền "làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp".

Điều 6 của Hiến pháp 1980 quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".

Điều 82 của Hiến pháp 1980 và Điều 83 của Hiến pháp 1992 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập Pháp"...

Chúng ta nhận thấy ngay rằng đã có sự thay đổi rất lớn, rất cơ bản về quyền lập Hiến từ Dân đã được chuyển sang Quốc hội.

Câu hỏi đặt ra là ai có quyền chuyển quyền đó? Câu trả lời rõ ràng là chỉ có Dân mới có quyền đó. Song Dân chưa có văn bản nào chuyển quyền lập Hiến của Dân sang Quốc hội cả, mà là do chính Quốc hội tự quyết định giao quyền lập Hiến cho mình.

Có thể nói đơn giản thế này: Ai là người có quyền tối hậu trong lập Hiến thì người đó là người chủ đích thực của đất nước. Từ chỗ Dân làm chủ trực tiếp trong lập Hiến, chuyển sang chỗ Dân làm chủ gián tiếp thông qua Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Dân. Như vậy có thể nói, từ Dân làm chủ đích thực chuyển sang Quốc hội thay mặt cho dân làm chủ.

Đó là sự thay đổi, sự xa rời rất lớn, rất cơ bản về người chủ đích thực của đất nước.

Quốc hội vừa lập hiến, vừa lập pháp, người ta gọi như thế là vừa đá bóng, vừa thổi còi.

Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân. Như vậy Dân mới làm chủ đích thực.

Đây là vấn đề xa rời bản chất dân chủ của nhà nước, cả về pháp lý, cả về thực tiễn. Như trên đã nói, do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân bất khả kháng, vì vậy, chúng ta đã chuyển từ Dân chủ thành Quốc hội chủ. Song về thực chất thì Quốc hội cũng còn nhiều hình thức.

Hiện nay khoảng 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên. Do vậy mà nhiều người cho rằng, về hình thức thì Quốc hội quyết, song thực chất là Đảng quyết . Quyết định của Quốc hội chỉ là quyết định mở rộng trong nội bộ Đảng. Như vậy là từ Dân chủ đầy đủ chuyển sang Quốc hội chủ một phần, Dân chủ một phần, song cả Dân và Quốc hội đều còn nhiều hình thức nên nhiều người cho rằng Đảng mới thực quyền. Thực tế đó cho thấy, quyền của Dân - của người làm chủ còn bị phân tán quá lớn.

Nói cho dễ hiểu, ai làm chủ đất nước thì người đó phải có hai điều kiện, hai quyền thực chất tối thiểu là:

a/ - Bầu cơ quan đại diện cao nhất cho mình (Quốc hội) để bầu cử ra các cơ quan Nhà nước,

b/ - Phúc quyết Hiến pháp để giao quyền của Dân cho các cơ quan Nhà nước thực thi.



Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Chúng ta nói nhiều về Dân chủ, rằng nhân dân ta là người chủ đích thực của đất nước, rằng nhà nước ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân,... song những quyền tối hậu của người Dân thì lại chưa được quy định cụ thể và đầy đủ trong các Hiến pháp sửa đổi sau Hiến pháp 1946.

Ngay Hiến pháp 1946 tuy đã qui định rất rõ quyền lập Hiến thuộc về nhân dân, song cũng không thực hiện được trong thực tiễn vì lý do bất khả kháng là chiến tranh đã nổ ra ngay sau đó.

Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, nhân dân ta là người chủ đất nước, song Nhà nước ta chưa một lần nào hỏi ý kiến Dân với tính chất là trưng cầu dân ý cả. Nhân dân ta chủ yếu mới làm chủ gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện như Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân mới làm chủ trực tiếp trong bầu cử trưởng thôn, bầu cử đại biểu QH và HĐND các cấp. Như vậy chưa đúng với quyền và nghĩa vụ của người Dân trong thể chế Dân chủ Cộng hòa trong điều kiện hòa bình và thống nhất đất nước như hiện nay.

Nếu Dân được phúc quyết Hiến pháp thì Hiến pháp chính là văn bản pháp lý quan trọng nhất của Dân trao quyền lực của Dân cho Nhà nước.

Ngược lại, nếu Dân chưa được phúc quyết Hiến pháp thì cũng có nghĩa là Dân chưa trao quyền lực của Dân cho Nhà nước bằng một văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp.

Sửa đổi Hiến pháp lần này cần giao lại quyền phúc quyết cho dân như Hiến pháp 1946 đã quy định cho đúng với bản chất của thể chế cộng hòa hoặc dân chủ cộng hòa, hoặc cộng hòa xã hội chủ nghĩa.

Quyền lực của nguyên thủ quốc gia bị phân tán 3 nơi

Vấn đề thứ hai là việc xác định: AI LÀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA? VÀ NGƯỜI ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ?

Vấn đề này Hiến pháp 1946 ghi rất rõ, và Nhà nước ta khi đó thực hành cũng rất tốt.

Các Hiến pháp sửa đổi sau này lại không rõ ràng bằng Hiến pháp 1946, và trong thực hành cũng rất lúng túng.

Theo quy luật tự nhiên, đàn chim bao giờ cũng có chim đầu đàn, đàn trâu bao giờ cũng có trâu đầu đàn, dàn nhạc phải có nhạc trưởng,... Với một quốc gia cũng vậy, quốc gia nào cũng phải có một nguyên thủ.

Về quy định này, tại Điều 49 của Hiến pháp 1946 ghi cụ thể về quyền của Chủ tịch Nước như sau:

a, Thay mặt cho Nước...

b, Giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc...

c, Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng....

d, Chủ tịch Hội đồng Chính phủ ...

...................

h, Ký hiệp ước với các nước....

Và Điều 50 của Hiến pháp 1946 cũng ghi: "Chủ tịch Nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc".

Những quy định của Hiến pháp 1946 rất ngắn gọn, rõ ràng rằng Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho Nhà nước về đối nội, đối ngoại; thống lĩnh các lực lượng vũ trang; và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp là Chính phủ.

Nói cho dễ hiểu, nguyên thủ quốc gia phải có ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu như sau:

a, Thay mặt cho Nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại,

b, Đứng đầu cơ quan hành pháp,

c, Thống lĩnh lực lượng vũ trang,

Các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) đều giảm nhẹ vai trò của Chủ tịch Nước, không rõ thực chất quyền của một nguyên thủ quốc gia. Điều đó không phải lỗi của vị Chủ tịch nước nào, mà chẳng qua là do các Hiến pháp sửa đổi sau này quy định như vậy:

Điều 6 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người thay mặt cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về đối nội và đối ngoại".

Điều 65 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống lĩnh các lực lượng vũ trang trong toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng", song thực chất Tổng Bí thư mới là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang.

Điều 66 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và Chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ". Quy định như vậy là làm giảm nhẹ hẳn vai trò của Chủ tịch Nước trong cơ quan hành pháp so với Hiến pháp 1946.

Như vậy, các Hiến pháp sửa đổi sau này đều quy định không rõ ràng và không tập trung quyền của Chủ tịch nước bằng Hiến pháp 1946. Rõ ràng không có ai hội đủ ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu của một nguyên thủ quốc gia như Hiến pháp 1946.

Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương thống lĩnh lực lượng vũ trang song về pháp lý lại không thay mặt cho nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại, cũng không đứng đầu cơ quan hành pháp.

Thủ tướng Chính phủ đứng đầu Chính phủ nhưng lại không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp và cũng không thống lĩnh lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Nước thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại nhưng trong thực tiễn lại không thống lĩnh lực lượng vũ trang, cũng như không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp.

Chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay rằng quyền lực của một nguyên thủ quốc gia lại bị phân tán làm ba nơi, do ba người nắm giữ. Tức là ta có ba người thực thi quyền của một nguyên thủ trong điều hành thực tiễn, như thế có phân tán quyền của nguyên thủ quốc gia không? Tôi cho là quá phân tán.

Tới đây, chúng ta phải sửa đổi bổ sung Hiến pháp làm sao để chỉ có một nguyên thủ quốc gia, tập trung quyền hành pháp vào người đứng đầu để điều hành đất nước có hiệu lực và hiệu quả hơn.

Việc không rõ nguyên thủ quốc gia, không rõ con chim đầu đàn, không rõ nhạc trưởng, hậu quả thế nào thật dễ hiểu, dễ thấy.

Phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước

Cuối cùng là VẤN ĐỀ PHÂN CÔNG VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC. Phân công phải hướng tới cân bằng tương đối, phải rõ ràng, rành mạch; kiểm soát phải có chế tài, phải chặt chẽ, hiệu lực.

Phân công phải cân bằng thì mới có khả năng kiểm soát hiệu lực, kiểm soát hiệu lực nằm ngay trong sự phân công công bằng.

Nhìn lại lịch sử của thể chế quân chủ cho thấy, quyền lực tập trung vào nhà Vua, mà quyền lực bao giờ cũng có xu hướng lạm quyền, thoái hóa... Do đó mà triều đại nào lên, lúc đầu thường là được lòng người, sau lại thoái hóa, lại bị triều đại sau thay thế. Những sự thay thế đó thường diễn ra khi triều đại cũ đã quá thối nát, quá cản trở sự phát triển của xã hội và thường bị thay thế bằng bạo lực.

Chính vì thế mà thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa đã áp dụng sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực để chống độc quyền, hạn chế sự lạm quyền và khi cần thì thay thế ê kíp cầm quyền một cách chủ động, kịp thời, thông qua tranh cử nghị viện.

Quyền lực dưới thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa không tập trung vào một người hay một lực lượng, cơ quan nào, mà phân công tương đối cân bằng cho ba cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp (Quốc hội - Chính phủ - Tòa án): Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất, Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, và Tòa án là cơ quan xét xử cao nhất.

Nghiên cứu kỹ các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) thì thấy rằng những quy định để cân bằng và kiểm soát quyền lực lại không được rõ ràng và cân bằng như Hiến pháp 1946.

Ví dụ, Quốc hội có quyền lập Hiến, điều đó có nghĩa rằng quyền lực của Quốc hội vượt trội quá lớn so với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội có quyền phân công quyền lực cho cả các cơ quan hành pháp và tư pháp, và cho cả chính mình.

Đúng ra, quyền lập Hiến phải là quyền của Dân chứ không phải của Quốc hội. Do đó mà quyền của Dân cũng bị phân tán và yếu thế, không đúng với quyền của người làm chủ.

Hoặc quyền của nguyên thủ quốc gia bị phân tán ở ba nơi, điều đó cũng có nghĩa là quyền lực của cơ quan hành pháp quá yếu thế so với cơ quan lập pháp.

Còn quyền lực của cơ quan tư pháp thì sao? Trong thực tiễn thì nó yếu thế hơn các cơ quan lập pháp và hành pháp và còn bị chi phối trong xét xử.

Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, phân công quyền lực không cân bằng, không rõ ràng thì sự kiểm soát sẽ không có hiệu lực và hiệu quả. Tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cơ hội là những biểu hiện của sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực rõ ràng nhất. Nó cũng là hậu quả của sự phân công và kiểm soát quyền lực chưa được cân bằng như quy định của Hiến pháp 1946.

Cân bằng và kiểm soát quyền lực là một cơ chế cực kỳ quan trọng trong Hiến pháp nhằm tránh sự lạm quyền và thoái hóa mà trong thể chế quân chủ chuyên chế đã bất lực. Tất nhiên không thể nói tuyệt đối được, vì thể chế nào cũng phải thông qua con người cụ thể. Nhưng có một cơ chế cân bằng và kiểm soát quyền lực cho ba cơ quan Nhà nước, sẽ tốt hơn rất nhiều so với cơ chế tập trung quyền lực vào một ông vua, hoặc vào bất kỳ một lực lượng, một cơ quan nào khác.

Cân bằng và kiềm soát quyền lực là một sự tiến bộ về khoa học và nghệ thuật cầm quyền, là một bước tiến của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, sửa đổi bổ sung Hiến pháp lần này phải quan tâm để làm rõ ràng hơn, hoàn thiện tốt hơn sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Tóm lại, ở đây nhấn mạnh có ba vấn đề cốt lõi cần được bàn kỹ trong đợt sửa Hiến pháp tới đây:

1/- Dân được quyền phúc quyết Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, để cho đúng nghĩa với thể chế Dân chủ Cộng hòa, Dân là chủ đích thực của đất nước.

2/- Quyền của nguyên thủ quốc gia cần được tập trung hơn, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan hành pháp.

3/- Phân công và kiểm soát quyền lực cần được cân bằng hơn, nhằm phòng ngừa sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và cơ hội trong hệ thống chính trị.

Tôi hy vọng tới đây, nhân dân ta sẽ được hưởng quyền và làm nghĩa vụ của người chủ đích thực của đất nước là: Tham gia ý kiến và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này.

Thu Hà (lược ghi)


TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)

Sinh viên Mỹ khám phá đồng bằng Sông Cửu Long
Tìm về nơi ẩn mình của Tập Cận Bình
Chảy máu hay lưu thông chất xám toàn cầu
Trung - Mỹ: Cột trụ kinh tế hay thách thức an ninh?

21/02 "Một người làm quan cả họ được nhờ"

Tác giả: Alan Phan
Bài đã được xuất bản.: 9 giờ trước

Hiện tượng "một người làm quan, cả họ được nhờ" đã tồn tại suốt 10 ngàn năm trong lịch sử nhân loại, qua mỗi thời đại và không gian. Từ vị vua chúa ở đỉnh cao đến ông trưởng thôn ở một quận hẻo lánh, lợi dụng quyền lực của mình để gia đình cùng hưởng lợi, nhất là vợ con, đã trở thành một thói quen như ăn uống hay giải trí.

>> Giấc mơ "hồi tỵ"

Hơn 40 năm trước, khi tôi tốt nghiệp đại học ở Mỹ, do nhu cầu về nhân viên cấp cao vượt qua nguồn cung, nên các công ty Mỹ lớn có thói quen gởi người đến các đại học để tuyển mộ "nhân tài". Những sinh viên ở Top Ten (10% đứng đầu sổ) tha hồ lựa chọn công việc và chỗ làm theo sở thích. Vào thời điểm đó, các cơ quan chánh phủ cũng cho người đến các trường để tìm nhân viên. Nhưng họ chỉ vớ được những sinh viên học dở, nằm ở cuối sổ, vì làm việc cho chính phủ được coi là nhàm chán, lương thấp, không có cơ hội để tỏa sáng và dành cho những anh sinh viên "hơi dốt", "kém may mắn".

Ở những xã hội Âu Mỹ thời đó, làm quan đã bị coi là mạt vận; còn nếu lêu lổng, không lo học hành, đào tạo cho mình kỹ năng bài bản hay trí thức thâm sâu, thì con đường duy nhất đi đến tương lai chỉ có thể là đi... lính (quân đội hoăc cảnh sát).

Có lẽ đây là tư duy của cha mẹ ông Hosni Mubarak khi ông không được học làm bác sĩ kỹ sư, mà phải vào quân đội. Tuy nhiên, trái với mọi tiên đoán, khi phải buộc từ chức và giao quyền Tổng Thống Ai Cập lại cho người khác, sau 65 năm, ông Mubarak bây giờ có thể về hưu với tài sản lớn hơn Bill Gates (ước tính khoảng 70 tỷ US dollars) và cả gia đình ông, kể cả hai người con, đều là những tỷ phú dựa trên tài sản riêng của họ. Trong khi đó, 40% dân nghèo Ai Cập phải lo lắng từng bữa ăn với một lợi tức trung bình chừng 2 dollars một ngày cho mỗi đầu người.

Ảnh minh hoạ: Tổng thống Hosni Mubarak (tintucxalo.vn)

Trường hợp ông Mubarak không phải là đơn lẻ. Hiện tượng "một người làm quan, cả họ được nhờ" đã tồn tại suốt 10 ngàn năm trong lịch sử nhân loại, qua mỗi thời đại và không gian. Khởi đầu là các chế độ phong kiến với tập tục "cha truyền con nối", "trung thành với vua quan", rồi biến thành "chiến sĩ của các đại lãnh tụ". Dù mọi lý thuyết và thực tế đã chứng minh sự lỗi thời lạc hậu của định kiến này, nó vẫn được tiếp tục trấn đặt trên người dân khắp nơi để bảo vệ quyền hành của các chính trị gia. Từ vị vua chúa ở đỉnh cao đến ông trưởng thôn ở một quận hẻo lánh, lợi dụng quyền lực của mình để gia đình cùng hưởng lợi, nhất là vợ con, đã trở thành một thói quen như ăn uống hay giải trí. Ngay cả nhiều quốc gia ở Âu Mỹ, các quan chức và gia đình quyền lực vẫn tìm đủ mọi khe hở của pháp luật để phát huy quyền hành và đặc lợi. Sự tham lam không bao giờ chịu ngưng ở một thế hệ.

Mubarak không phải là vị lãnh tụ Ả Rập đầu tiên muốn đưa con trai mình lên nối ngôi Tổng Thống. Trước đó, Tổng Thống Assad ở Syria đã thành công đưa con là Bashar al-Assad lên vị trí "number one". Saddam Hussein chuẩn bị đầy đủ cho con trai Qusay lên kế vị trước khi ổng bị giết. Các ông lãnh tụ từ Muammar Gadafy của Lybia, Ali Abdullah Salih của Yemen, đến các vị vua ở Kuwait, Bahrain, UAE, Saudi Arabia... luôn tìm đủ cách để con cái được nối ngôi, dù phải trả giá cao đến bao nhiêu, từ giá hạnh phúc cho gia đình mình đến giá xã hội cho nhân dân đang đói nghèo ngoài dinh thự.

Nhìn đến châu Á, tập tục cha truyền con nối còn phổ thông hơn các nơi khác vì triết lý Khổng Mạnh (quân sư phụ) đi theo các chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại mạnh mẽ trong xã hội. Gần nhất thì có Chủ tịch Kim Jong Il của Bắc Triều Tiên vừa phong chức Đại Tướng cho cậu con trai 25 tuổi (Kim Jong Un). Kim Jong Il đã thừa hưởng chức vụ lãnh tụ này suốt 30 năm qua sau khi nhận lại quyền hành từ thân phụ, ngài Kim Il Sung . Ở Đài Loan, khi Tưởng Giới Thạch qua đời, con trai ông là Tưởng Kinh Quốc thay thế nắm quyền lãnh đạo đến năm 1988. Tại Trung Quốc, thống kê của chánh phủ khi loan báo đã làm sôi nổi mạng lưới Net là sự kiện 90% các tỷ phú (US dollars) mới của Trung Quốc theo danh sách Forbes 2009 là "con ông cháu cha" của các cựu lãnh tụ trung ương hay còn gọi là các hoàng tử đỏ (princelings) (a). Tuy vậy, các lãnh tụ Trung Quốc khôn ngoan hơn các xứ khác: họ cho con cái thay đổi tên họ để tránh sự nhận biết quá rõ ràng về những liên hệ gia đình.

Ngay cả một xứ như Mỹ, ông George W Bush đã dùng bộ máy tranh cử và cố vấn của cha để tranh cử và đắc cử Tổng Thống vào năm 2000 và 2004. Trong lịch sử Mỹ, dù không kế vị trực tiếp, nhưng Tổng Thống John Quincy Adams là con của cựu Tổng Thống John Adams. Những gia đình khác có sự tập trung quyền lực chính trị nổi tiếng của Mỹ là gia đình Kennedy ở Massachusetts, gia đình Daley ở Chicago, gia đình Brown ở California,... Nhưng phải công bằng mà nhận định là các người con chính trị gia ở Mỹ phải trải qua những kỳ vận động tranh cử rất mệt nhọc để kiếm phiếu từ người dân, chứ không được trao vương miện bằng một sắc lệnh như tại các xứ khác.

Dĩ nhiên, người dân thường sớm nhận ra những áp đặt bất công và phi lý này. Tuy nhiên, cả mấy chục năm nay, những người dân ở Ai Cập, Tunisia hay Algeria quá nghèo, lay lắt với miếng cơm manh áo. Nghịch lý là chỉ khi Ai Cập, Tunisia và Algeria đạt được một mức thu nhập GDP trên đầu người cao hơn và có thì giờ tiền bạc tiêu xài cho những phương tiện truyền thông hiện đại hơn, thì làn sóng phản ứng mới lan rộng trong nhiều tầng lớp trung lưu. Nhiều giả thuyết cho rằng, nếu GDP của Ai Cập đừng tăng trưởng trung bình 7% mỗi năm như trong 10 năm qua, thì dân Ai Cập vẫn còn ngoan ngoãn như một đàn cừu, lo mưu sinh, nhịn nhục.

Nếu các lãnh tụ độc tài ngày nay quay ngược thời gian và có cơ hội tư vấn từ Machiavelli (nhà quân sự chính trị lỗi lạc nhất thời Trung Cổ), họ sẽ nhận lời khuyên như sau, "Đừng để dân giàu nhanh, đừng để dân khôn biết hơn và đừng để dân có thì giờ nhàn rỗi. Quyền lực của các ngài sẽ lâm nguy đó." Tôi không biết có nhà chính trị nào ở Trung Quốc khuyên chính phủ phải giữ mức độ tăng trưởng GDP dưới 1% trong 20 năm tới, để tránh mọi rắc rối, như bài học Ai Cập, Tunisia đã dạy?

Vừa rồi, khi coi BBC về một phân tích các nguyên nhân của cuộc cách mạng ở Ai Cập, một người bạn gửi cho tôi một đoản văn về Zen (Thiền).

"Một anh mù đến từ giã bạn mình. Người bạn cho anh một cây đèn lồng. Anh mù cười hỏi:
- Tôi đâu cần đèn lồng. Với tôi, sáng hay tối có gì khác nhau?.
- Tôi biết. Nhưng nếu không mang nó theo, trong bóng tối người khác có thể đụng vào anh
- Ồ, vậy thì được.
Đi được một đoạn, bất ngờ anh mù bị một người đâm sầm vào. Bực mình, anh ta quát:
- Bộ không thấy đèn hả?
- Đèn của ông đã tắt từ lâu rồi mà."

---------------------------

Chú thích: (a) Collard, Tim, 2009, Chinese princelings: the cover-up gets more difficult, The Telegraph, UK, 10/08/2009.



TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)

"Một người làm quan cả họ được nhờ"
Khi các lãnh tụ biết cười mình….
Trưởng thôn, ông là ai ?
Xin trả nợ Bà Chúa Kho thông qua thủ quỹ của Bà

19/02 "Chưa điều tra là quan tốt, điều tra là quan tham"

Tác giả: Vương Cẩm Tư (Trung Quốc)
Bài đã được xuất bản.: 19/02/2011 06:00 GMT+7

Lưu Chí Quân kiếm được những khoản lợi kếch sù qua các vụ đấu thầu làm đường sắt cao tốc. Đồng thời trong Bộ Đường sắt tồn tại các hiện tượng chính quyền và công ty nhập nhèm với nhau, chỉ bổ nhiệm chức vụ cho người thân.

Vì sao bị cách chức?

Ngày 12/2, mạng Tân Hoa đưa tin từ Bắc Kinh: 1 cán bộ phụ trách hữu quan của Ban Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác nhận việc ông Lưu Chí Quân, Bí thư Tổ đảng bộ Đường sắt Trung Quốc và là Bộ trưởng Bộ này bị tình nghi vi phạm nghiêm trọng kỷ luật, hiện đang tiếp nhận sự điều tra của tổ chức đảng.

Hệ thống đường sắt Trung Quốc đúng là đã có tác dụng lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân dân Trung Quốc. Nhưng trong một thời gian dài, ngành đường sắt đã tồn tại những vấn đề nghiêm trọng, chỉ lo kiếm lời, chất lượng phục vụ cực kém. Tình trạng ấy liên quan tới chuyện hệ thống quan chức do Lưu Chí Quân đứng đầu không chịu cố gắng làm việc và nạn tham nhũng nặng nề.

Nhiều năm trước đây trong dân chúng đã có lắm tin đồn về sự tham nhũng của Lưu Chí Quân. Nhưng cho tới nay việc này mới được phanh phui. Đúng là không thể lật ngược được quy luật và số phận "Chưa điều tra thì là quan tốt, đã điều tra thì đều là quan tham".

Không thể phủ nhận, trong thời gian Lưu Chí Quân làm Bộ trưởng, ngành đường sắt Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ, nhất là đường sắt cao tốc, thậm chí có khả năng cạnh tranh quốc tế, khiến mọi người lác mắt. Đã nhiều lần ông Lưu ngực đeo bông hoa đỏ lớn, tươi tỉnh xuất hiện trong các hoạt động công chúng, đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, vỗ tay như sấm. Nhưng trong thời kỳ Lưu Chí Quân lãnh đạo, ngành đường sắt Trung Quốc từng xảy ra mấy vụ tai nạn giao thông và tham nhũng lớn, có ảnh hưởng sâu xa.


Ông Lưu Chí Quân

Ngày 28/4/2008, trên tuyến đường sắt Tế Nam-Thanh Đảo (tỉnh Sơn Đông) xảy ra vụ đâm tàu làm chết 72 người, bị thương 416 người, tắc giao thông hơn 21 giờ, khiến cả thế giới hãi hùng. Thế mà mãi tròn một năm sau Bộ trưởng Lưu Chí Quân mới bị kỷ luật cảnh cáo ghi lý lịch.

Anh ruột Lưu Chí Quân là Lưu Chí Tường, nguyên Phó Cục trưởng Cục Đường sắt Vũ Hán, vì thuê hung thủ giết người nên bị kết tội cố ý làm hại người khác, và phạm tội tham nhũng. Ông này từng bị Tòa án phán quyết tử hình hoãn thi hành 2 năm và tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời, bị tịch thu tài sản 1 triệu NDT (Nhân dân tệ, 1 NDT tương đương 0,1516 USD) và truy nộp hơn 40 triệu NDT thu nhập bất hợp pháp.

Nhưng những việc đó chẳng những không làm suy suyển chiếc ghế của Lưu Chí Quân mà khi Chính phủ khóa trước hết nhiệm kỳ, ông ta lại lần nữa được cử làm Bộ trưởng Bộ Đường sắt. Cây to rễ sâu, cành lá sum sê, Lưu Chí Quân tha hồ hô phong hoán vũ trên sân khấu đường sắt Trung Quốc.


Khi nói về quyết định điều tra Lưu Chí Quân, lãnh đạo mới của Bộ Đường sắt là ông Thịnh Quang Tổ cho rằng, quyết định này thể hiện sự quan tâm cao độ của Trung ương Đảng do đồng chí Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư đối với công việc của ngành đường sắt. Thể hiện quyết tâm xây dựng ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ Bộ Đường sắt. Thể hiện yêu cầu nhất quán của Trung ương nghiêm chỉnh quản lý đảng và quản lý cán bộ lãnh đạo. Cũng thể hiện quyết tâm kiên định, tăng cường xây dựng tác phong liêm khiết trong đảng và trừng trị tham nhũng.
Lần cuối cùng Lưu Chí Quân xuất hiện trước công chúng trong vai trò Bộ trưởng Bộ Đường sắt là ngày 8/2/2011, khi ông ta có Phó Tỉnh trưởng An Huy Hoàng Hải Cao tháp tùng, đến ga xe lửa Phụ Dương tỉnh An Huy kiểm tra công tác phục vụ chuyên chở dân về quê ăn Tết, xong trở ra thành phố. Hôm ấy cán bộ công nhân ngành đường sắt và quần chúng cơ sở xếp hàng nghiêm chỉnh, long trọng nghênh đón "đại lãnh đạo" đến thăm.

Hiện chưa có công bố chính thức về việc Lưu Chí Quân phạm kỷ luật như thế nào. Nhưng theo một số báo đài thì việc ông ta "ngã ngựa" có liên quan tới vụ Đinh Thư Miêu, tức vụ việc đầu tư xây dựng đường sắt. Một tin nói "Lưu Chí Quân có 18 bồ nhí", từng nhận hối lộ vài tỷ NDT, dính líu tới việc đấu thầu làm đường sắt cao tốc và nhiều công ty niêm yết chứng khoán tại Hồng Kông, Thượng Hải.

Những khoản lợi kếch xù từ đâu?

Các dự án xây dựng đường sắt cao tốc quy mô cực lớn là nguyên nhân chính khiến cho ngành đường sắt nợ như chúa chổm. Thống kê cho thấy, riêng lãi vay ngân hàng mà Bộ Đường sắt Trung Quốc phải trả trong năm 2009 là hơn 40 tỷ NDT. Chi phí trả lãi vay hàng năm sắp sửa lên đến con số 100 tỷ NDT.

Lưu Chí Quân kiếm được những khoản lợi kếch sù qua các vụ đấu thầu làm đường sắt cao tốc. Đồng thời trong Bộ Đường sắt tồn tại các hiện tượng chính quyền và công ty nhập nhèm với nhau, chỉ bổ nhiệm chức vụ cho người thân.

Khi nói về quyết định điều tra Lưu Chí Quân, lãnh đạo mới của Bộ Đường sắt là ông Thịnh Quang Tổ cho rằng, quyết định này thể hiện sự quan tâm cao độ của Trung ương Đảng do đồng chí Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư đối với công việc của ngành đường sắt. Thể hiện quyết tâm xây dựng ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ Bộ Đường sắt. Thể hiện yêu cầu nhất quán của Trung ương nghiêm chỉnh quản lý đảng và quản lý cán bộ lãnh đạo. Cũng thể hiện quyết tâm kiên định, tăng cường xây dựng tác phong liêm khiết trong đảng và trừng trị tham nhũng.


Trong thời kỳ Lưu Chí Quân lãnh đạo, ngành đường sắt Trung Quốc từng xảy ra mấy vụ tai nạn giao thông. Ảnh: Xinhuanet


Để bảo đảm việc Lưu Chí Quân bị hạ bệ không ảnh hưởng tới công tác của ngành đường sắt, Bộ Đường sắt quyết định từ nay cho tới cuối tháng 3 sẽ triển khai một đợt đại kiểm tra an toàn đường sắt toàn quốc trong thời gian 1 tháng rưỡi.

Lưu Chí Quân - người lâu nay được tiếng là Tết nào cũng không về nhà - từ Tết sang năm trở đi và nhiều năm nữa sẽ chẳng thể về nhà ăn Tết. Đón chờ ông ta không còn là những bó hoa và tiếng vỗ tay, mà là cuộc sống lâu dài sau song sắt nhà tù.

Nguyên Hải lược dịch theo Zaobao.com

Thảo luận


TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)

Lá ấn và sự cuồng tín
Sao phải bỏ lễ khai ấn đền Trần?
Cứu Cụ Rùa bằng cách nào?
"Chưa điều tra là quan tốt, điều tra là quan tham"

22/02 Pháp giới thiệu sách về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

22/02/2011 08:19:00
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. (Ảnh: TTXVN)CÁC TIN LIÊN QUAN

Ngày 21/2 tại Paris, giáo sư sử học Pháp Alain Ruscio đã giới thiệu với độc giả Pháp cuốn sách do ông sưu tập và biên soạn từ năm 1979 đến 2008, với nhan đề "Võ Nguyên Giáp-một cuộc đời," do nhà xuất bản Les Indes Savantes ấn hành.

Đây là một trong các hoạt động được tổ chức trong khuôn khổ “Tuần lễ chống thực dân,” khai mạc ngày 18/2 tại Pháp.

Trong lời nói đầu, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ khi ông còn là phóng viên thường trú, đặc phái viên của báo Nhân đạo (l’Humanité) tại Hà Nội năm 1979, nhân dịp kỷ niện 25 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Vào dịp đó, Alain Ruscio đã gặp được Đại tướng Võ Nguyên Giáp dù khi đó Đại tướng rất bận. Theo Alain Ruscio, ông đã không thể quên hình ảnh cuộc gặp đầu tiên này.

“Tướng Giáp đứng trên cao bậc cầu thang và tôi đã không thể rời mắt khỏi ông khi tôi bước từng bước lên cầu thang… "

Từ đó cho đến nay, 30 năm về sau này, cứ mỗi chuyến về Việt Nam, ông Alain Ruscio lại tìm gặp Đại tướng. Chỉ duy nhất vào tháng 1/2010, Đại tướng từ chối không tiếp ông vì lúc đó Đại tướng đã yếu khi bước vào tuổi 100.

“Bằng một cách tự nhiên và không hình thức”“với sự cho cho phép của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,” Alain Ruscio đã thực hiện ý tưởng viết cuốn sách này bằng việc tập hợp các bài viết, bài nói chuyện và các bài tham luận lịch sử chính trị của Đại tướng, với 5 phần kể về cuộc đời của ông từ khi là “thầy giáo lịch sử,” trở thành “người thanh niên yêu nước,” “du kích,” đến khi ông là “nhà lý luận chiến tranh cách mạng,” “nhà thực tiễn của cách mạng chống lại thực dân Pháp” và trở thành “nhà thực tiễn cách mạng chống lại đế quốc Mỹ”./.


Lê Hà-Phương Nam/Paris (Vietnam+)


Từ khóa : Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Alain Ruscio, Điện Biên Phủ

Chủ tịch Quốc hội thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp-một trí tuệ thuyết phục

Chúc mừng Tướng Giáp nhân ngày thành lập Quân đội
"May mắn được chụp ảnh tướng Giáp giữa cuộc đời"

10 cây tùng bách mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp

01/12/2010 Ngày sang tạo Việt Nam: Hiệu quả lớn từ những đề án nhỏ

08:25' AM - Thứ tư, 01/12/2010

Ngày 29/11 Phó Tổng Thanh tra Trần Đức Lượng đã chủ trì Hội thảo Ngày sáng tạo Việt Nam nằm trong kế hoạch của Thanh tra Chính phủ (TTCP) về việc tổ chức Chương trình Sáng kiến Chống tham nhũng Việt Nam năm 2011 (VACI 2011) do Thanh tra Chính phủ phối hợp với Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức Hội thảo nhằm Tổng kết Chương trình Ngày Sáng tạo Việt Nam 2009 (VID 2009) và giới thiệu chương trình VACI 2011. Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Tổng Thanh tra Trần Đức Lượng đánh giá VID 2009 với chủ đề “Nâng cao tính trách nhiệm và minh bạch, giảm tham nhũng” đã rất thành công, thể hiện sự tham gia tích cực của cộng đồng vào công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN), đồng thời thể hiện tiềm năng sáng tạo của các cơ quan, tổ chức ở địa phương và cơ sở. Hơn nữa, đây cũng là một kênh thông tin để nâng cao nhận thức về chống tham nhũng và chính sách chống tham nhũng của Chính phủ

Với phương pháp tiếp cận từ dưới lên, phần lớn các dự án được thực hiện ở cấp cơ sở (xã, huyện), đã tạo nên một “bức tranh chung” với nhiều sáng kiến thiết thực từ cơ sở. Người dân vừa có điều kiện hiến kế, lại vừa được tham gia đóng góp công sức là cũng chính là được hưởng lợi từ thành quả mà mình bỏ công sức đã góp phần thiết thực vào sự phát triển của địa phương và cộng đồng nơi mình sinh sống. Người dân còn rất tự hào vì họ còn đóng góp thêm được nhiều ý tưởng mới mẻ, sáng tạo tăng cường công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Với ngân sách và quy mô hạn chế, nhiều dự án có hiệu quả lan rộng không chỉ ở địa bàn thực hiện mà còn ở cấp cao hơn.

Tổng kết đánh giá VID 2009, bà Lê Thị Mai Hương, chuyên gia đánh giá độc lập của Ngân hàng Thế giới cho biết: Trong số 152 đề án dự thi, VID đã trao giải cho 25 đề án với tổng số tiền tài trợ lên đến 330.000 USD, mỗi dự án được tài trợ không quá 15.000 USD. Mặc dù còn gặp một số khó khăn do chủ đề “nhạy cảm” là chống tham nhũng, nhưng những dự án VID 2009 không vì thế mà bị hạn chế. Mỗi dự án là một câu chuyện khác nhau về nhiều lĩnh vực: Giảm nghèo, chăm sóc y tế, xây dựng công trình phúc lợi, chế độ cho người cao tuổi, giáo dục nâng cao nhận thức

Tại Hội thảo, Ban tổ chức cũng đã giới thiệu Chương trình Sáng kiến chống tham nhũng Việt Nam (VACI) 2011 với chủ đề “Tăng cường liêm chính công và thực thi pháp luật góp phần PCTN hiệu quả”. VACI có nhiều điểm khác biệt so với VID 2009. Rút kinh nghiệm từ VID 2009, chương trình sẽ được tổ chức tốt hơn trên cơ sở phối hợp chặt chẽ hơn giữa TTCP và các nhà tài trợ, đồng thời chuẩn bị kỹ càng về nội dung chương trình. Các vấn đề quan trọng như chủ đề, tiểu chủ đề của mỗi chương trình, các hoạt động chính của chương trình, nội dung hoạt động, chấm điểm, hội thảo đào tạo, tăng cường năng lực… được xây dựng cụ thể.

Cũng từ kinh nghiệm của chương trình VID 2009, vai trò tích cực của TTCP sẽ tiếp tục được củng cố trong các chương trình VACI sắp tới, không chỉ trong tổ chức và thực hiện chương trình mà còn kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các đề án trúng giải. Thời gian dành cho các chủ đề án chuẩn bị nội dung và nộp đề án cũng được kéo dài hơn chương trình trước (trong gần 6 tháng) với các hoạt động tuyên truyền diễn ra liên tục. Một điểm mới nữa của VACI là trong số 25 đề án đoạt giải, Ban giám khảo sẽ dành giải thưởng cho một số đề án đã đoạt giải VID 2009 mà tổ chức có hiệu quả để tiếp tục thực hiện trong năm 2011 – 2012.

Tương tự như Ngày sáng tạo Việt Nam, Chương trình bao gồm 2 hoạt động chính: Cuộc thi sáng tạo và hoạt động trao đổi kiến thức. Dựa trên chủ đề chính, các tiểu chủ đề được đề xuất gồm: Xây dựng một nền hành chính phục vụ, Tăng cường liêm chính công và đạo đức công vụ, Nâng cao tính minh bạch và quyền tiếp cận thông tin, Nâng cao hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật. Các tiêu chí lựa chọn chính: Tính sáng tạo, kết quả cụ thể và các tác động trực tiếp, tính khả thi/năng lực của tổ chức tham gia, tính bền vững và khả năng nhân rộng

Đối tượng tham gia chương trình là các cơ quan, tổ chức, đoàn thể có tư cách pháp nhân được Nhà nước công nhận của Việt Nam ở cấp địa phương; trừ các cơ quan, tổ chức và đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ và thanh tra các Bộ, ngành; các đơn vị, ban quản lý dự án trực thuộc Ngân hàng Thế giới; các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc lực lượng quân đội, công an nhân dân. Các tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài cũng có thể tham gia chương trình khi hợp tác với một đối tác là pháp nhân trong nước..

Song song với việc triển khai chương trình VACI 2011, TTCP sẽ phối hợp với các nhà tài trợ xây dựng kế hoạch tổng thể cho hoạt động này đến năm 2015. Mỗi chương trình VACI 2013, 2015 sẽ mang một chủ đề cụ thể về PCTN phù hợp với yêu cầu và bối cảnh trong thời điểm đó. Việc xây dựng một lộ trình trung hạn sẽ giúp TTCP chủ động tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động tuyên truyền, tìm kiếm ý tưởng hay về PCTN như đã đề ra tại Kế hoạch thực thi Chiến lược Quốc gia về PCTN đến năm 2020 của TTCP.

Thanhtra.gov

Số lượt đọc: 302 - Cập nhật lần cuối: 01/12/2010 08:25:23 AM

18/11/2010 Hội thảo khoa học: “Tiến triển của công tác phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo sau đối thoại về PCTN lần thứ 7 và kế

Hội thảo khoa học: “Tiến triển của công tác phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo sau đối thoại về PCTN lần thứ 7 và kết quả điều tra xã hội học về những nguy cơ tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

01:57' PM - Thứ năm, 18/11/2010


Chuẩn bị cho Đối thoại lần thứ 8 về phòng, chống tham nhũng với các nhà tài trợ quốc tế, ngày 16/11, Phó tổng Thanh tra Chính phủ Trần Đức Lượng đã chủ trì Hội thảo: “Tiến triển của công tác phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo sau đối thoại về PCTN lần thứ 7 và kết quả điều tra xã hội học về những nguy cơ tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT tại hội thảo, từ tháng 5/2010 đến nay (sau đối thoại về PCTN lần thứ 7), công tác phòng, chống tham nhũng trong giáo dục đã có nhiều chuyển biến tích cực thể hiện trên một số mặt như:

Về các khoản thu trong trường học, hầu hết các địa phương đều có văn bản hướng dẫn các cơ sở giáo dục trên địa bàn về thu và sử dụng học phí và các khoản thu khác; các cơ sở giáo dục đều đã công khai các khoản thu cho phụ huynh và học sinh ngay từ đầu năm học. Bộ đã gửi công văn tới các Sở GD-ĐT hướng dẫn quản lý, sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của cá nhân, tổ chức cho các nhà trường. Một số địa phương cũng đã ban hành các văn bản quy định mức thu và sử dụng các khoản đóng góp cho các trường học. Về dạy thêm, học thêm, những kiến nghị, phản ánh của phụ huynh và xã hội về tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan đều được xử lý, việc bắt ép học sinh đi học thêm cơ bản không còn. Tuy nhiên, việc bắt con phải đi học thêm do tâm lý lo ngại của phụ huynh vẫn còn, các cấp quản lý giáo dục đang tích cực tìm các giải pháp để hạn chế vấn đề này. Đây là vấn đề được các đại biểu tham dự hội thảo rất quan tâm. Các đại biểu cho rằng, nếu hiện tượng này không sớm chấm dứt, thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục.

Về tuyển sinh đầu cấp, tuyển sinh trái tuyến, các cơ sở trường học đã thực hiện nghiêm túc các quy định, hướng dẫn về công tác tuyển sinh. Riêng việc tuyển sinh vào lớp 10 đối với các trường THPT công lập, nhận học sinh vào các trường có chất lượng tốt đang là áp lực rất lớn đối với nhà trường vì chưa đáp ứng được yêu của xã hội. Do đó, tình trạng chạy trường, chạy lớp vẫn còn xảy ra. Trả lời những nghi ngại của các đại biểu về hiện tượng này, đại diện Bộ GD&ĐT cho rằng, việc chạy trường, chạy lớp là do áp lực xin vào các trường công lập và các cơ sở giáo dục có chất lượng cao. Bởi vì ở các trường này, ngoài việc đội ngũ giáo viên có chất lượng cao thì các khoản đóng góp cũng ít hơn, phù hợp với thu nhập hiện nay của người dân Việt Nam, trong khi đó các chỉ tiêu tuyển sinh vào trường lại rất hạn chế. Để chấm dứt việc chạy trường, chạy lớp thì Nhà nước cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức để đảm bảo cơ sở vật chất và chất lượng giảng dạy ở các trường có sự đồng đều.

Về tuyển sinh đầu cấp, tuyển sinh trái tuyến, các cơ sở trường học đã thực hiện nghiêm túc các quy định, hướng dẫn về công tác tuyển sinh. Riêng việc tuyển sinh vào lớp 10 đối với các trường THPT công lập, nhận học sinh vào các trường có chất lượng tốt đang là áp lực rất lớn đối với nhà trường vì chưa đáp ứng được yêu của xã hội. Do đó, tình trạng chạy trường, chạy lớp vẫn còn xảy ra.

Về xử lý các hành vi và vụ việc tham nhũng, lãnh đạo Bộ cho biết đã xử lý đình chỉ tuyển sinh 2010 của 02 cơ sở giáo dục đại học vì có nhiều sai phạm trong công tác quản lý đào tạo đó là ĐH Phan Châu Trinh, ĐH Quảng Nam; xử lý vi phạm của ĐH Công nghệ Đông Á, Bắc Ninh, xử lý một số sai phạm tại Viện ĐH Mở Hà Nội, xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ĐH Nông lâm TPHCM và ĐH Đà Lạt.

Cũng tại hội thào này, Viện khoa học thanh tra đã tình bày kết quả điều tra, khảo sát về nguy cơ tham nhũng trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tại 3 địa phương là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Phúc.

Thanhtra.gov.vn





Số lượt đọc: 436 - Cập nhật lần cuối: 18/11/2010 01:57:28 PM

21/02 Điểm mới đối với Giải báo chí Quốc gia 2010

2:32 PM, 21/02/2011
(Chinhphu.vn) - Đối với ảnh báo chí, năm nay có một điểm quy định mới là các tác giả có thể tự gửi tác phẩm đủ điền kiện và tiêu chuẩn chung về Ban tổ chức, không qua Ban tuyển chọn ở cơ sở.


Các tác giả nhận Giải báo chí Quốc gia năm 2009


Như thông lệ, Giải báo chí Quốc gia hằng năm sẽ được tổ chức và trao giải vào dịp Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam- 21/ 6, là sự kiện báo chí lớn nhằm tôn vinh các tác giả, tác phẩm xuất sắc nhất của một năm.

Theo văn bản hướng dẫn của Hội đồng Giải báo chí Quốc gia, về nội dung, Giải báo chí Quốc gia năm 2010 sẽ xem xét và trao giải cho những tác phẩm: Bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, của ngành, của địa phương, phản ánh kịp thời và sâu sắc tình hình thực tế, có tính phát hiện, phục vụ thiết thực sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; phản ánh trung thực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước trong năm 2010; thông tin chính xác và kịp thời những sự kiện quốc tế quan trọng; khuyến khích các tác phẩm báo chí về các điển hình tiên tiến, nhân tố mới, phê phán chống lại các hành vi tiêu cực, tham nhũng, những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Không xét tác phẩm có yếu tố hư cấu (thơ, tranh vẽ, tiểu phẩm, ký văn học, câu chuyện văn nghệ, truyện ngắn, tạp văn...).

Các tác phẩm dự Giải và xét thưởng là những tác phẩm đã được sử dụng, đăng báo, phát trên đài phát thanh, truyền hình từ ngày 1/1/2010 đến 31/12/2010, của các nhà báo chuyên và không chuyên, không vi phạm đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, không vi phạm Luật báo chí và luật pháp khác.

Một tác phẩm báo in dự thi có thể là một chùm tin hoặc một chùm bài của cùng tác giả, về cùng một sự kiện, cùng một đề tài và thực hiện bằng cùng một thể loại báo chí. Một chùm tin không quá 5 tin, một chùm bài không quá 5 bài viết về một chủ đề hoặc về một sự kiện, một đối tượng.

Đối với báo nói và báo hình, thời lượng tác phẩm dài nhất không quá 60 phút.

Riêng đối với ảnh báo chí, năm nay có một điểm quy định mới là các tác giả có thể tự gửi tác phẩm (đủ điền kiện và tiêu chuẩn chung) về Ban tổ chức, không qua Ban tuyển chọn ở cơ sở.

Tác phẩm ảnh bao gồm ảnh đơn, nhóm ảnh hoặc phóng sự ảnh, được thể hiện bằng ảnh màu hoặc đen trắng. Đối với nhóm ảnh hoặc phóng sự ảnh đăng báo có nhiều ảnh, chỉ tuyển chọn mỗi nhóm ảnh hoặc phóng sự ảnh không quá 10 ảnh, đăng trên cùng một số báo.

Khi tuyển chọn tác phẩm dự giải, Hội đồng Giải báo chí Quốc gia lưu ý bảo đảm cân đối số lượng tác phẩm của 3 loại giải tương ứng với các loại hình báo chí (báo in, báo nói, báo hình). Không nên chọn nhiều tác phẩm thuộc một loại hình hoặc thuộc một thể loại. Đề nghị các cấp Hội, các cơ quan báo chí quan tâm nhiều hơn nữa đến các tác phẩm báo chí, tác phẩm phát thanh thuộc loại tin, bài phản ánh, phỏng vấn, bình luận, chuyên luận, tọa đàm trên sóng phát thanh.

Về số lượng tác phẩm dự giải của mỗi tác giả, nhóm tác giả, mỗi tác giả hoặc mỗi nhóm tác giả chỉ được chọn gửi 1 tác phẩm dự giải và mỗi tác giả chỉ được đứng tên ở một tác phẩm hoặc trong một nhóm tác giả. (Tác giả là người quay phim, được đứng tên tối đa trong 3 nhóm tác giả). Riêng đối với ảnh báo chí, số ảnh gửi dự giải không tính vào chỉ tiêu được gửi dự Giải của cơ sở.

Hội đồng Giải không nhận tác phẩm dự Giải do cá nhân tự gửi về Hội đồng Giải (trừ ảnh báo chí). Tất cả các tác phẩm dự giải của các tác giả (là hội viên hay không phải hội viên Hội Nhà báo Việt Nam) đều phải thông qua các cấp Hội cơ sở. Những tác giả không phải là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam thì tác phẩm dự giải đăng, phát sóng ở báo, đài nào, tác giả có quyền gửi tác phẩm dự Giải thông qua Chi hội hoặc cơ quan báo chí đó.

Thời hạn cuối cùng gửi tác phẩm là ngày 31/3/2011 (theo dấu Bưu điện). Gửi theo địa chỉ Ban Thư ký Tổng hợp Giải báo chí Quốc gia - Hội Nhà báo Việt Nam, 59 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Điện thoại: (04)38.246.530 - 097.262.8386 hoặc Fax: (04)38.250.797. Ngoài bì ghi rõ: Dự Giải báo chí Quốc gia năm 2010./.

An Bình