Wednesday, April 27, 2011

Fw: [Exryu-ww-Forum] Phạm Ðình Chương- lời chứng Du Tử Lê

Phạm Ðình Chương
Bi kịch và lòng nhân ái trong ca từ Phạm Ðình Chương (Tiếp theo kỳ trước)
Wednesday, April 27, 2011 5:13:58 PM


Du Tử Lê
(Tiếp theo kỳ trước)
Tôi vẫn nghĩ, đời sống mỗi cá nhân giống như một căn nhà, được xây bằng những viên gạch bất toàn.

Từ trái qua: Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ Tế, Phạm Ðình Chương, Tạ Tỵ. (Hình: Tác giả cung cấp)
Bất toàn tinh thần hay bất toàn thể chất? Bất toàn ở giai đoạn đầu đời, trung niên hay cuối đời? Bất toàn với những cuộc tình, những ước mơ không đạt được...? Tất cả, với tôi đều là bất toàn, một trong những yếu tính mà, làm người dường không ai tránh được!
Riêng với nhạc sĩ Phạm Ðình Chương, một trong những bức tường ngôi nhà đời sống cá nhân của ông, không được hình thành bằng những viên gạch bất toàn! Oan nghiệt thay, nó được xây dựng bằng những viên gạch thảm kịch trớ trêu. Ðịnh mệnh. Thứ định mệnh tai quái thường dành cho những bậc tài hoa. Như thể đó là tổng số tiền lời tính trên phân lời quá cao mà, cá nhân đó mặc nhiên phải trả cho phần tư hữu mang tên tài hoa hơn người của họ.
Tôi dùng hai chữ "mặc nhiên" bởi tôi cho rằng, họ Phạm không hề muốn "vay," càng không có chủ tâm chiếm hữu một sản nghiệp tinh thần đồ sộ, mang tên âm nhạc!
Tôi vẫn nghĩ, Phạm Ðình Chương đến với âm nhạc, tự nhiên như sự có mặt của ông trong cuộc đời này.
Ở tuổi mười tám tuổi, với lồng ngực thanh niên, náo nức nhựa sống, khi ông hối hả ghi xuống những dòng nhạc đầu tiên của ca khúc "Ra đi khi trời vừa sáng" - Cũng như ở tuổi mới chớm ngoài sáu mươi, khi ông mệt mỏi, buồn bã đứng lên - Ðặt cây bút xuống - Lặng lẽ rời khỏi chiếc dương cầm của mình đặt ở phòng khách, ngôi nhà chung cư đường số 23rd, Westmninster - Lúc ông mỉm cười chia tay nốt nhạc cuối cùng của ca khúc "Quê hương là người đó"(4) - Ðể từ đó, nó bắt đầu sự sống trên đôi chân chính nó - Trước, sau tôi không nghĩ, ông tự nguyện ký giấy vay bất cứ một khoản tiền lớn, nhỏ nào với định mệnh.
Nhưng, định mệnh vẫn tìm ông, để đòi. Nhưng, cay nghiệt vẫn tìm ông để phô diễn tính đố kỵ muôn đời của nó. Ðó là những ngày tháng cuối thập niên (19)50.
Ðó là một chia tay bất ngờ, không thể oan trái hơn, giữa ông và nữ ca sĩ Khánh Ngọc.
Thảm kịch với sức chấn động và, dư chấn dội lại dài lâu từ dư luận, thân, tâm, đã dập tắt mọi tiếng cười. Khóa chặt mọi nẻo đường dẫn tới tiếng hát.
"Thăng Long"' bị chôn sống sau địa chấn.
Nhà văn Mai Thảo kể, rời bỏ đầu tiên khỏi "bản doanh" đại gia đình Thăng Long ở đường Bà Huyện Thanh Quan là Phạm Duy và Thái Hằng. Phần còn lại gồm cả "Bà mẹ Thăng Long" (thân mẫu nhạc sĩ Phạm Ðình Chương), dọn về một ngôi nhà nhỏ ở đường Võ Tánh.
Ðó là thời gian họ Phạm sống những ngày gần như cắt đứt mọi liên hệ xã hội. Ông chỉ tiếp xúc với một số bằng hữu thân thiết, giới hạn.
Vẫn theo lời kể của nhà văn Mai Thảo, đang từ một "tay chơi" một "star," thần tượng của giới trẻ thời đó, Phạm Ðình Chương đã lột xác thành kẻ khác.
Ông thay đổi hoàn toàn. Từ sự không còn một chút để ý quần áo, ăn mặc, tới sự tắt ngấm nụ cười. Ông trở thành một người không chỉ kiệm lời, đôi khi còn bẳn gắt nữa.
Mai Thảo, tác giả tiểu thuyết "Mười đêm ngà ngọc," một truyện dài viết về gia đình Thăng Long, nói:
"Nhiều khi cả ngày Hoài Bắc không mở miệng... Nhưng số anh em thân, vẫn lui tới, không bảo nhau, chúng tôi tôn trọng sự im lặng của Hoài Bắc. Chúng tôi tìm mọi cách, nghĩ đủ mọi chuyện chỉ với mục đích sao cho bạn vui. Bạn có thể có lại nụ cười..."
Trái với một vài bài viết cho rằng ngay sau đó, họ Phạm đã sáng tác một số ca khúc như "Nửa hồn thương đau" hay "Người đi qua đời tôi," "Khi cuộc tình đã chết"... Như một phản ứng tức khắc với phần số.
Sự thực dư chấn của thảm kịch đã giảm thiểu mọi hoạt động của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương một thời gian khá dài. Nó như một dấu lặng (bất thường) trong âm nhạc!
Nếu tính từ 1960 tới 1966 thì đó là thời gian họ Phạm viết được một số ca khúc, đến nay vẫn còn được nhiều người yêu thích, như "Mộng dưới hoa" (thơ Ðinh Hùng), "Buồn đêm mưa" (thơ Huy Cận); "Mầu kỷ niệm" (ý thơ Nguyên Sa,); "Mắt buồn" (thơ Lưu Trọng Lư) hay "Mưa Saigon mưa Hà Nội" (viết chung với Hoàng Anh Tuấn), "Xóm đêm" (nhạc và lời Phạm Ðình Chương)...
Sau đấy, ở hai năm kế tiếp là hai ca khúc, họ Phạm phổ hai đoạn thơ trong một bài thơ dài, nhan đề "Bài ngợi ca tình yêu" của Thanh Tâm Tuyền. Hai đoạn thơ trở thành ca khúc đó, là "Bài ngợi ca tình yêu" và "Ðêm mầu hồng." Ông bị chú:
"Vừa viết xong (ca khúc "Ðêm mầu hồng") thì anh em mời cộng tác mở một phòng trà ca nhạc trên đường Tự Do Saigon. Bèn lấy tên bài ca đặt thành phòng trà này." Ðó là năm 1968. (05)
Còn những ca khúc như "Người đi qua đời tôi" (thơ Trần dạ Từ) và "Khi cuộc tình đã chết" (thơ Du Tử Lê) đều được họ Phạm soạn thành ca khúc năm 1969. Và, một năm sau, tức năm 1970, mới là "Nửa hồn thương đau" (nhạc và lời của Phạm Ðình Chương).
Trong tuyển tập "Mộng Dưới Hoa," trang 14, tác giả ghi:
"Viết xong (Nửa hồn thương đau) năm 1970, tại Ðêm Mầu Hồng, đường Tự Do theo yêu cầu của anh Quốc Phong, giám đốc Liên Ảnh Công Ty, để dùng cho cuốn phim Chân Trời Tím do công ty này sản xuất. Ðoạn cuối bài trích ở tác phẩm Lệ Ðá Xanh, thơ Thanh Tâm Tuyền, nhạc Cung Tiến." (06)
Khi được hỏi tại sao chỉ còn hai câu chót mà "Nửa hồn thương đau" lại phải mượn nhạc Cung Tiến thì Phạm Ðình Chương cho biết:
"Khi tôi nhận lời viết một nhạc phim cho phim 'Chân trời tím', Quốc Phong chi ngay tiền tác quyền. Trước sự điệu nghệ của bạn, tôi đã bắt tay vào việc sáng tác. Thời gian tôi dành cho 'Nửa hồn thương đau' không nhiều lắm. Nhưng khi tới phần 'coda' tức là lúc phải đi ra, kết thúc ca khúc, tôi loay hoay không biết phải viết sao cho hợp với nội dung bản nhạc... Nghĩ thời hạn 'nộp bài' còn xa, tôi cất nó đi. Bất đồ, một buổi tối Quốc Phong ghé lại 'Ðêm mầu hồng' đòi nợ! Bảo, mọi chuyện đã sẵn sàng. Ê kíp quay đã 'bấm máy'. Chỉ còn thiếu nhạc phim thôi. Quốc Phong gia hạn cho tôi, tối đa, hai ngày! Ông biết mà, tôi làm gì được với hai ngày phù du đó! May sao, khi ấy, trên nóc chiếc piano của tôi, lại có bài 'Lệ đá xanh' của Cung Tiến, phổ thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi thấy cái coda bài này có vẻ thích hợp với 'Nửa hồn thương đau', thêm nữa, cả hai đều là bạn rất thân; thế là... 'a lê hấp', tôi dùng ngay cái 'coda' đó. Và, tôi có ghi rõ là tôi 'mượn' của Cung Tiến..."
Nhìn lại giai đoạn "hậu địa chấn" bi kịch vùi dập đời riêng của họ Phạm, kể từ cuối thập niên (19)50 tới 1967, những người theo dõi sáng tác của ông trong giai đoạn này, hầu như không tìm thấy một ca từ nào mang tính kết án, nguyền rủa hay, thù oán... Mà trái lại.
Như khi ông phổ nhạc bài thơ "Một mùa đông" của Lưu Trọng Lư - Với tựa mới là "Mắt buồn" thì, ca từ "nặng" nhất trong ca khúc này, cũng chỉ là "Ðôi mắt em lặng buồn / nhìn nhau mà lệ ứa / một ngày một cách xa / một ngày một cách xa..." Hoặc tin tưởng (hy vọng) một cuộc sống bớt "đìu hiu" trong những ngày "sống thêm," như: "Ai chia tay ai đầu xóm vắng im lìm / ai rung lên tia mắt ngàn câu êm đềm / mong sao cho duyên nghèo mai nắng reo thềm / đẹp kiếp sống thêm / màn đêm tịch liêu / xa nghe ai thoáng ru câu mến trìu / nghe không gian tiếng yêu thương nhiều / hứa cho đời thôi đìu hiu." (Trích "Xóm đêm")
Ngay với ca khúc tựa đề "Người đi qua đời tôi" thì họ Phạm cũng đã chọn câu thơ như một câu hỏi, có thể làm nao lòng người nghe là: "Em đi qua đời anh / không nhớ gì sao em?"
Hoặc ca khúc có nhan đề khá "dữ dằn" là "Khi cuộc tình đã chết" thì họ Phạm cũng chỉ chọn những câu thơ "nặng nề" nhất là: "Khi cuộc tình đã chết / còn mắt nào cho nguôi / đời đã đành chia đôi..." Phản ảnh tinh thần chấp nhận, không than oán. Không trách cứ.
Ngay ca khúc "Nửa hồn thương đau" được dư luận nhắc tới, bàn tán nhiều nhất và, đề quyết rằng, họ Phạm viết ca khúc này nhằm gửi tới người bạn đời đã chia tay trong quá khứ của ông thì, "đỉnh điểm" của ca từ cũng chỉ là những câu hỏi ném ngược về quá khứ. Như một tỏ-tình- với-dĩ-vãng. Một nâng-niu-vết-sẹo-định-mệnh: "Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau / ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau / hay ta còn hẹn nhau kiếp nào? / Anh ở đâu? / Em ở đâu?" (Lời hoàn toàn của Phạm Ðình Chương.)
Tuyệt nhiên, người ta không thể tìm thấy trong ca từ của ông, những gào thét kiểu "Giết người đi! Giết người đi! / Giết người trong mộng đã bội thề / Giết người đi! Giết người đi! / Giết người quên tình nghĩa phu thê..." như ca khúc "giết người trong mộng," thơ Hàn Mặc Tử, nhạc Phạm Duy.
Những ca từ nêu trên, đã cho thấy, đã phản ảnh trung thực tính nhân ái, lòng bao dung, độ lượng của họ Phạm.
Từ góc độ này, có người đã kết luận, nhạc sĩ Phạm Ðình Chương không chỉ lớn lao ở tài năng, mà ông còn lớn lao ở phong cách đối mặt với thảm kịch và, ăn ở với người, với đời nữa.
Du Tử Lê
(Tiếp kỳ tới, Thứ Năm ngày 5 tháng 5-2011: "Thơ phổ nhạc và, tính lương thiện của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương")
Chú thích:
(4) "Quê hương là người đó," thơ Du Tử Lê. Xem thêm tuyển tập "Mộng Dưới Hoa - 20 bài thơ phổ của Phạm Ðình Chương," do Vincent & Company ấn hành tại California, USA, 1990. Tới ngày mất, người ta thấy trên nắp chiếc dương cầm của họ Phạm, một số sáng tác ở dạng dang dở.
(5) Sđd, trang 18.
(6) Sđd.

0o0

Thơ phổ nhạc và tính lương thiện của nhạc sĩ Phạm Đình Chương,
(05/04/2011 06:42 PM) (Xem: 1698)


 

 Du Tử Lê.
Trong một bài viết cách đây khá lâu, tôi đã nhấn mạnh tới một tương tác đẹp đẽ giữa thơ và nhạc; như một gắn bó hữu cơ giữa hai bộ môn này. Nó giúp gia tăng sự giầu có, ý nghĩa và hạnh phúc trong kỷ niệm cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm.
Trong bài viết đó, tôi cũng có viết, đa số các nhạc sĩ của chúng ta, trong đời sáng tác của họ, ít, nhiều, cũng đã có lần tìm đến với thơ, như tìm đến với một người tình lý tưởng - - Dù cho sự tìm đến đó, là thành công hay thất bại! Những người nhạc sĩ đến với thơ này, cũng giống như hầu hết các thi sĩ sớm, hay muộn đã tìm về với Lục Bát (một thể thơ đặc thù của văn học Việt.)
Nhưng, nói như thế, không có nghĩa, tất cả các nhạc sĩ chỉ có một con đường duy nhất đến thơ. Vì thi ca Việt Nam như một cánh rừng già; đồng thời cũng có thể là biển cả hay vực sâu…Cho nên lịch sử thi ca Việt Nam hàng nghìn năm, đã mang đến cho người đọc (trong đó, có nhạc sĩ) những lựa chọn ứng hợp với cảm thức, trình độ thưởng ngoạn hay, mục tiêu nhắm tới của mỗi cá nhân. Có nhạc sĩ tìm đến với thi ca, như một lối thoát cho những bế tắc cảm hứng. Có những nhạc sĩ đến với thi ca, như đến với một người-tình-chung-của-văn-học. Và, dĩ nhiên, cũng có những nhạc sĩ tìm đến với một loại thơ nào đó, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn dễ dãi hay thị hiếu của đám đông.
Cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương ở trường hợp thứ hai. Trường hợp của những nhạc sĩ tìm đến với thi ca, như sự tìm đến với người-tình-chung- của-văn-học. 
Cụ thể ở những năm giữa thập niên (19)60, khi thơ Thanh Tâm Tuyền còn là một dị ứng lớn với đa số người thưởng ngoạn thì, họ Phạm đã chọn thơ ông để soạn thành ca khúc. (7)
Ông cũng là một trong vài nhạc sĩ đầu tiên, phá vỡ thành kiến cho rằng thơ tự do không thể phổ nhạc được. Chẳng những vì số chữ không đều của mỗi câu thơ mà các nhạc sĩ còn e ngại sự thiếu thi tính(?) của loại thơ đó nữa.
Như ca khúc "Bài ngợi ca tình yêu" của Phạm Đình Chương đã dùng gần hết phân đoạn thứ nhất của bài thơ dài, 4 đoạn của Thanh Tâm Tuyền:
"Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão / Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai / Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai / Tìm cánh tay nước biển / Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi / Đất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể / Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn / Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường / Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt / Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng / Những giòng sông, những đường cày, núi nhọn những biệt ly / những biệt ly rạn nứt lòng đường…" (Sđd.) 



Cũng vậy, với ca khúc "Đêm màu hồng," họ Phạm cũng lấy gần như nguyên văn, ¾ của phân đoạn thứ 3, bài thơ Thanh Tâm Tuyền vừa kể trên:
"Em gối đầu sương xuống chuyện trò bằng bóng mình / Em gối đầu sương xuống tôi đẹp bóng hình tôi / Như cuộc đời, như cuộc đời, như mọi người, như chút thôi, như chút thôi / Em là lá biếc, là mây cao, là tiếng hát / Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương, nhiều nhớ thương / Em là cánh hoa, là khói sóng / Đêm màu hồng / Vòng tay, vòng tay dĩ vãng / Vòng tay, vòng tay bát ngát / Chốn yên nghỉ cuối cùng / Dưới mắt sao, dưới bàn chân những đứa con…"(Sđd.) 
Ngoài ra, họ Phạm cũng là người đầu tiên có sáng kiến dùng hai bài thơ của một thi sĩ để hoàn tất một ca khúc phổ thơ của thi sĩ ấy. Đó là ca khúc "Đôi mắt người sơn Tây" thơ Quang Dũng.(8) 
Bất cứ ai, nếu đọc kỹ thơ Quang Dũng, sẽ dễ dàng nhận ra rằng, đoạn đầu của ca khúc này là 4 câu thơ của cố thi sĩ Quang Dũng, trích từ bài thơ nhan đề "Đôi bờ":
"Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai / sông xa từng lớp lớp mưa dài  / mắt em xưa có sầu cô quạnh / khi chớm thu về một sớm mai." 

Nhưng ngay sau đoạn "intro.", họ Phạm lại dùng các đoạn thứ 5, 6, 7 và 8 của bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây" của Quang Dũng để viết tiếp và kết thúc ca khúc ấy. Phần tiếp, được họ Phạm bắt đầu với câu "Đôi mắt người Sơn Tây / U uẩn chiều luân lạc…" Và chấm dứt bằng câu "Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ / Còn có bao giờ em nhớ ta."(Sđd.)
Sáng kiến của Phạm Đình Chương sau đấy, đã được một số nhạc sĩ ứng dụng. Thí dụ nhạc sĩ Đăng Khánh qua ca khúc "Lệ buồn nhớ mi" - - Vốn là hai bài thơ khác nhau của Du Tử Lê.
Là tác giả của nhiều ca khúc phổ từ thơ nổi tiếng, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được ghi nhận có biệt tài giữ nguyên lời mà ca sĩ không bị "trẹo" lưỡi khiến người nghe "nhận" được một…chữ khác, như thường xẩy ra nơi một số nhạc sĩ khác. Thí dụ có những chữ như "tình" không "ăn" được với nốt nhạc, ca sĩ có thể sẽ hát thành "tính" hay "tĩnh!" Chữ "sẻ" sẽ biến thành "sẽ" hoặc "sẹ"…Điển hình như trong ca khúc "Mộng dưới hoa" thơ Đinh Hùng, có một chữ rất "đắt" là chữ "lả" trong câu "mắt em lả bóng dừa hoang dại" - - Khi vào nhạc Phạm Đình Chương, ca sĩ không bị "trẹo" lưỡi, hát thành "" hay "lạ." Chỉ một đôi trường hợp đặc biệt lắm, họ Phạm mới buộc phải thay chữ để tránh sự hiểu lầm tai hại nơi người  nghe. Thí dụ khi phổ nhạc bài "Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển," có câu "Vùi đất lạ thịt xương e khó rã…" - - Ông đã đổi thành "Vùi đất lạ thịt xương không tan biến…" Ông nói:
"Nếu giữ nguyên, khi ca sĩ hát, nó sẽ thành 'Vùi đất lạ thịt xương e kho giá…"

Ghi nhận về vị trí hay tương quan giữa cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương với nền thi ca Việt Nam miền Nam,  hai mươi năm, tác giả Nguyễn Việt trong một bài viết được lưu trữ bởi trang mạng Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở), ông viết: "Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội & thơ Hoàng Anh Tuấn), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)."  


Nhưng trên tất cả, theo tôi, vẫn là tinh thần tự trọng đáng ghi nhớ của họ Phạm trong lãnh vực phổ nhạc thơ. Bởi vì, trong sinh hoạt thơ và nhạc của 20 năm nghệ thuật miền Nam, đã có không ít những nhạc sĩ thiếu tự trọng, rơi vào một trong 3 (hoặc cả 3) trường hợp sau đây:
1-Dựa theo ý thơ của một bài thơ nào đó để soạn thành ca khúc, nhưng những nhạc sĩ này cố tình không ghi xuất xứ!
2-Khi trình bày hay giới thiệu một ca khúc vốn là thơ của một nhà thơ nào đó, những nhạc sĩ này có thói quen không bao giờ nhắc tới tên nhà thơ!
3-Lấy nguyên bài thơ của một nhà thơ để soạn thành ca khúc, nhưng khi phổ biến, những nhạc sĩ này không ghi tên nhà thơ. Họ chỉ điều chỉnh, hay "nói lại" khi bị dư luận, báo chí phanh phui!
Tựu trung, đó là những tính thiếu lương thiện hay, những vết mực đen hoen ố, đáng tiếc trong sinh hoạt thơ và nhạc của 20 năm nghệ thuật miền Nam.
Nhưng, cho tới ngày từ trần, cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương đều không có mặt trong cả 3 trường hợp vừa nêu. Họ Phạm thận trọng và tự trọng tới mức, khi ông chỉ dùng 2 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền, ở phần Coda của bài "Nửa hồn thương đau," ông cũng đã ghi "Ý thơ Thanh Tâm Tuyền," ngay dưới tựa đề; chưa kể thêm phần bị chú ở  cuối bài. (Sđd.)
Cũng vậy, ngay dưới nhan đề ca khúc "Màu kỷ niệm," Phạm Đình Chương ghi "Ý thơ Nguyên Sa." Cuối bài, ông lại bị chú thêm:
"Viết trong thập niên 60. Cảm hứng từ thơ Nguyên Sa: 'Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc / áo nàng xanh anh mến lá sân trường / sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương / anh thay mực cho vừa màu áo tím.' Bốn câu thơ trên trích từ bài Tuổi Mười Ba của ông." (Sđd.)
Trong một bài nói chuyện về thơ phổ nhạc, ký giả Lê Văn, nguyên Chủ biên phần Việt ngữ đài VOA kể, năm 1985, trong họp mặt thân hữu ở Hoa Thịnh Đốn, tác giả "Nửa hồn thương đau" khoe với ông rằng:
" 'Moa vừa phổ nhạc được 1 bài thơ của Du Tử Lê. Thú lắm, để moa hát cho mà nghe.' Anh ngồi vào piano, đã định hát nhưng trông thấy Quỳnh Giao có mặt ở đó, anh bèn gọi Quỳnh Giao đến và đưa cho cô bản nhạc chép tay của anh. Quỳnh Giao vốn là cô giáo dạy nhạc nên chỉ nhẩm qua một chút là hát được liền, và cô hát rất hay. Đó là bài "Đêm, Nhớ Trăng Saigon." (9)
Nói cách khác, chẳng những không che dấu mà, còn cho thấy ông rất vui khi phổ nhạc một bài thơ. Nên không bao giờ ông quên nhắc tới tác giả bài thơ mỗi khi giới thiệu, trình bày hoặc in trên giấy!  
Tóm lại, tính lương thiện của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, trong một chừng mực nào đó, đã cho thấy tính văn hóa rất cao của nhạc sĩ miền Nam, mà, ông là một người trong số đó. 
Du Tử Lê,
---------------------------
Chú thích:
(7) Nhà văn, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền tên thật Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Ông là thành viên nòng cốt của nhóm Sáng Tạo. Ông từ trần ngày 22 tháng 3 năm 2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
(8) Theo Wikipedia thì nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm. Ông sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội.) Ngoài tài làm thơ, ông còn được biết đến như một họa sĩ và nhạc sĩ nữa. Bị trù dập sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, ông chết âm thầm ngày 13 tháng 10 năm 1988 tại Hà Nội.
(9) Lê Văn, "Hứng nhạc trong thơ DTL," trang nhà dutule.com (Cột mục "Ghi nhận từ bằng hữu".)  

.
----- Forwarded Message -----
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: """Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com""" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; """exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com""" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Wednesday, October 5, 2011 12:26 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Phạm Ðình Chương- lời chứng Du Tử Lê
__,_._,___