Saturday, August 20, 2011

20/08 Chuyên gia tư vấn Chính phủ về chính sách kinh tế


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại buổi làm việc. (Ảnh: Đức Tám/TTXVN)

Ngày 20/8, tại Trụ sở Chính phủ, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thường trực Chính phủ và lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương đã làm việc với hơn 30 chuyên gia kinh tế, nhà khoa học trong nước để tham vấn chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tài chính tiền tệ trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp.



Phát biểu tại buổi làm việc, thay mặt Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao những ý kiến đóng góp thẳng thắn, trách nhiệm, tâm huyến của các chuyên gia đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước; cho rằng, những đề xuất, giải pháp của các chuyên gia kinh tế là hết sức thiết thực trong nhận định về tình hình kinh tế thế giới và trong nước để Chính phủ xây dựng những chính sách điều hành phù hợp.

20/08 Bộ trưởng Vương Đình Huệ: ADB luôn là đối tác lớn, quan trọng và tin cậy đối với Việt Nam



(20/08/2011 11:12:00)
Ngày 19/8/2011, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ đã tiếp ông Tomoyuki Kimura - Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ  đã tiếp ông Tomoyuki Kimura - Giám đốc quốc gia ADB tại Việt NamTại buổi tiếp, Bộ trưởng Vương Đình Huệ chúc mừng ông Tomoyuki Kimura trên cương vị Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam trong nhiệm kỳ mới, Bộ trưởng đánh giá cao sự hợp tác, hỗ trợ của ADB đối với Việt Nam và Bộ Tài chính trong những năm qua.

Bộ trưởng Vương Đình Huệ  đề nghị ADB tiếp tục hỗ trợ giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm tiếp theo. Trong những năm tới nhu cầu đầu tư phát triển của Việt Nam rất lớn, vì vậy đề nghị ADB quan tâm dành nhiều nguồn vốn ưu đãi cho Việt Nam, đây cũng là yếu tố góp phần phát triển nhưng đảm bảo cả yếu tố quản lý nợ bền vững.

Sự trợ giúp của ADB đối với Bộ Tài chính trong việc triển khai chương trình Cải cách quản lý tài chính công là rất cần thiết, Bộ Tài chính mong muốn tiếp tục nhận được sự trợ giúp từ ADB cho chương trình này. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính mong nhận được sự hỗ trợ của chuyên gia ADB trong việc chia sẻ kinh nghiệm để giúp Việt Nam ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững, giảm bội chi ngân sách và giúp Bộ Tài chính nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công, xây dựng ngân sách lành mạnh…

Ông Tomoyuki Kimura chúc mừng và cảm ơn Tân Bộ trưởng Bộ Tài chính đã dành thời gian đón tiếp và có những đánh giá tích cực về vai trò của ADB đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Dù mới đảm nhiệm cương vị Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam được hơn 1 tháng nhưng với bề dày sự hợp tác tin cậy đã có giữa ADB và Việt Nam, ông Tomoyuki Kimura tin tưởng ADB vẫn tiếp tục là đối tác quan trọng hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian tới,  ADB sẽ tiếp tục hỗ trợ cho phía Việt Nam.

Ngân hàng phát triển Châu Á  (ADB) là một tổ chức tài chính quốc tế lớn và là một trong những nhà tài trợ tích cực cho Việt Nam. Các lĩnh vực tài trợ của ADB khá rộng, nhưng trong lĩnh vực chính sách ADB là nhà tài trợ có kinh nghiệm và đặc biệt hiệu quả trong hỗ trợ cải cách chính sách, thể chế thông qua các khoản vay chương trình các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cải cách nông nghiệp, cải cách doanh nghiệp vừa và nhỏ, chương trình xoá đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, cải cách hành chính.

MT

20/08 Gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ

07:49 | 20/08/2011
Con số được quan tâm trong tuần này là khoản nợ nước ngoài 32,5 tỷ USD của nước ta tính đến cuối năm 2010, được công bố trong một bản tin chính thức của Bộ Tài chính. Tương đương 42,2% GDP năm 2010, đây là mức nợ cao nhất kể từ năm 2005 nhưng không gây bất ngờ.

Nguồn: ITN
Nợ công, trong đó có nợ nước ngoài, đã được đề cập suốt năm 2010, đặc biệt là sau sự đổ vỡ của Vinashin. Tại cả hai kỳ họp của Quốc hội Khóa XII trong năm trước, các đại biểu liên tục bày tỏ lo ngại về quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ công, dù Chính phủ luôn khẳng định nợ công vẫn đang “nằm trong giới hạn an toàn cho phép”. Khi đó, theo báo cáo chính thức của Chính phủ gửi tới Quốc hội, tính đến 31.12.2010, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 42,2% GDP. Bản tin nợ nước ngoài mới nhất của Bộ Tài chính cũng cho biết, tỷ lệ nợ công/GDP là 44,2%, tương đương 32,5 tỷ USD, tăng thêm gần 4,6 tỷ USD so với năm 2009. Tuy nhiên, đáng lưu ý là, lãi suất vay nợ nước ngoài của nước ta đang có xu hướng tăng lên vì 2 lý do: nước ta đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên các ưu đãi bị cắt giảm và mức tín nhiệm quốc gia ít nhiều có giảm. Một điểm nóng khác: dịch vụ nợ đang tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ giảm nhanh hơn hẳn. Chỉ trong năm 2010, dịch vụ nợ nước ngoài (trả nợ gốc, lãi, phí) là 1,67 tỷ USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009 (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD). Trong khi đó, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 280% của các năm 2009 và 2008).
Những con số trên không gây bất ngờ. Việc vay nợ nước ngoài cũng như xu hướng tăng quy mô nợ đã diễn ra nhiều năm nay. Câu hỏi liệu Việt Nam đã tính đúng và tính đủ nợ công hay chưa, những bất cập đang tồn tại trong quản lý tài chính công sẽ được khắc phục như thế nào… dường như vẫn là nỗi băn khoăn không nhỏ.
Với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Đặc biệt là khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa/GDP ngày một giảm. Theo chuyên gia Bùi Trinh của Tổng cục Thống kê, tiết kiệm là nguồn cơ bản để tái đầu tư, nếu không đủ sẽ phải đi vay và nếu tình trạng như hiện nay (tiết kiệm chiếm trên 20% GDP trong khi đầu tư luôn chiếm trên 40% GDP) kéo dài thì việc tiếp tục đi vay là không tránh khỏi.

Nguồn: fotolial.com
Tuy nhiên, việc đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển đến mức độ nào là hợp lý cần được cân nhắc kỹ lưỡng trong tổng thể chính sách vĩ mô. Hiện nay, các chỉ tiêu nợ công, trong đó có nợ nước ngoài, theo quan điểm của Bộ Tài chính là vẫn trong tầm kiểm soát. Nhưng cũng đã từ lâu, các chuyên gia kinh tế luôn nhấn mạnh, mức độ an toàn hay nguy hiểmcủa nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP, mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Có những nước tỷ lệ nợ quốc gia cao hơn GDP rất nhiều nhưng không đáng lo vì nền công nghiệp của họ phát triển mạnh nên được vay với lãi suất thấp, trái phiếu chính phủ được nước ngoài tìm mua. Đối với nước ta, nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách cao và kéo dài nhiều năm, đầu tư lại không ngừng mở rộng đẩy cả lạm phát và lãi suất lên cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Hiệu quả sử dụng vốn vay cũng chưa cao, chưa được quản lý giám sát chặt chẽ. Bên cạnh đó, tăng trưởng GDP chủ yếu do tăng lượng đầu tư, mà đầu tư thì không thể tăng mãi, nên đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm. Các chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, chính vào lúc tốc độ tăng trưởng GDP giảm cũng là lúc nhiều khoản nợ nước ngoài của Chính phủ đáo hạn.
Rõ ràng, tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng là giải pháp toàn diện, tác động trực tiếp đến những nguyên nhân căn bản của bất ổn kinh tế vĩ mô, nhưng cần thời gian dài hơn và những nỗ lực mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn trước mắt, cần tính toán thật cẩn thận trước khi quyết định vay nước ngoài, kể cả phát hành trái phiếu quốc tế và Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay nước ngoài. Cũng nên ưu tiên vay USD trong nước trước. Khi quyết định vay nước ngoài, cần tính toán chặt chẽ lãi suất vốn vay, dự báo kỹ lưỡng xu hướng biến động lãi suất. Theo PGS. TS. Trần Văn Giao (Khoa Quản lý Tài chính công, Học viện Hành chính), trong đàm phán vay vốn, tính toán chi tiết các điều khoản, cân nhắc những cam kết tránh thua thiệt, bất lợi hay những rủi ro tiềm ẩn trong các điều khoản của hiệp định, đặc biệt là chỉ định nhà thầu, nhà cung cấp thiết bị máy móc, rút vốn, các loại phí kèm theo… Quan trọng không kém là phải tính toán chính xác nhu cầu sử dụng, tiến độ giải ngân với việc vay vốn, tránh trường hợp vay vốn rồi lại đem gửi tại ngân hàng thương mại vì chưa sử dụng đến trong khi vẫn phải trả lãi cao. Nói cách khác, chủ trương huy động và sử dụng vốn cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Và nữa, phải chăng, đã đến lúc không thể chậm trễ hơn trong việc ban hành Luật Đầu tư công? Bởi vì, dù chúng ta tự tin và thận trọng, nhưng có một thực tế rất rõ ràng: mức nợ nước ngoài của Việt Nam đã và đang tiếp cận giới hạn chịu đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ.
Hồng Loan

20/08 Cải thiện cán cân thương mại từ FTA

08:22 | 20/08/2011
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú, mục tiêu của đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn 2011 - 2020 vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi thế từ FTA
Ngay khi là thành viên ASEAN năm 1995, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm thuế theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA). Mặc dù vậy, theo Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương Ts Lê Quang Lân, quá trình tham gia FTA thực sự thay đổi về chất khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nước ta đã tham gia một cách sòng phẳng hơn với động cơ chính của mọi cuộc đàm phán là lợi ích trong quan hệ thương mại và đầu tư. Với FTA, Việt Nam cũng đã chứng tỏ mình như một đối tác tin cậy. Hiện tại, đối tác FTA của ASEAN và Việt Nam đều là các quốc gia Đông Á. Đây là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất với kim ngạch khoảng 35 tỷ USD.
Cho đến nay, việc thiết lập FTA với các nền kinh tế lớn và năng động bậc nhất trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản đã mang đến nhiều cơ hội lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trên góc độ trực diện nhất, cơ hội xuất khẩu đối với các mặt hàng cụ thể trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia là rất đáng kể. Ví dụ với Nhật Bản, 79% xuất khẩu nông sản được hưởng ưu đãi thuế 0%. Mức thuế trung bình nhờ cam kết FTA đã giảm từ 8,1% xuống 4%. Các mặt hàng có lợi nhất là rau quả tươi, cà phê, chè, thịt lợn và các sản phẩm gỗ. Hàng thủy sản có thuế suất trung bình giảm từ 5,4% xuống 1,3%. Riêng đối với các sản phẩm công nghiệp, 100% thuế suất hàng công nghiệp đã chỉ còn 0% ngay trong năm 2010. Trong đó, mặt hàng có lợi nhất là dệt may, giày dép, hóa chất, điện và điện tử.
Hiện Việt Nam đang đàm phán FTA song phương với Chi Lê; tham gia đàm phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương; nằm trong chương trình đàm phán FTA ASEAN+3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), ASEAN+6 (thêm ấn Độ, Australia và New Zealand) và FTA song phương với Liên bang Nga, Liên minh châu Âu.
Về dài hạn, bức tranh về lợi ích xuất khẩu thường được nhìn nhận thông qua các nhân tố tác động đến mục tiêu hình thành năng lực cạnh tranh của đất nước. Cơ sở nhận diện lợi ích xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam chính là khả năng điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu khi tham gia các FTA.
Tìm phương thức cam kết phù hợp
Trong giai đoạn 2011 - 2020, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú cho rằng, mục tiêu của đàm phán FTA vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi ích của FTA không chỉ phụ thuộc vào vai trò định hướng của Nhà nước, mà quan trọng hơn chính là sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu những cam kết thuế quan, quy tắc xuất xứ hàng hóa cũng như các quy định về vệ sinh, kiểm dịch; tận dụng triệt để những lợi thế từ các FTA đã ký kết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng, tính cạnh tranh của hàng hóa mới thực sự là quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Hàng hóa của Việt Nam phải tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu thì mới mong mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung nâng chất lượng, giá trị và trách nhiệm đối với uy tín sản phẩm của mình.
Về phía Nhà nước, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu và nghiên cứu các phương thức cam kết phù hợp nhất với từng đối tác khi đàm phán FTA. Thông thường là theo phương thức chọn - cho, tức là tương tự như đàm phán trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, có đối tác lại muốn đàm phán theo phương thức chọn – bỏ, dựa trên các hiệp định hoặc mô hình cam kết mà họ đã ký kết với các đối tác khác. Việt Nam cần xử lý vấn đề này như thế nào cho phù hợp, linh hoạt mà vẫn bảo đảm quyền lợi của mình. Quan trọng hơn cả, phải xác định những thị trường nào thực sự tiềm năng để tiến hành đàm phán. Như vậy, cần có sự tham gia góp ý của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần phải xác định được thế mạnh của nước ta trong thời gian tới để thu hút các đối tác, vì thời của nhân công giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên dồi dào đã trôi qua.
Quang Nguyễn

20/08 Cải thiện cán cân thương mại từ FTA

08:22 | 20/08/2011
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú, mục tiêu của đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn 2011 - 2020 vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi thế từ FTA
Ngay khi là thành viên ASEAN năm 1995, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm thuế theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA). Mặc dù vậy, theo Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương Ts Lê Quang Lân, quá trình tham gia FTA thực sự thay đổi về chất khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nước ta đã tham gia một cách sòng phẳng hơn với động cơ chính của mọi cuộc đàm phán là lợi ích trong quan hệ thương mại và đầu tư. Với FTA, Việt Nam cũng đã chứng tỏ mình như một đối tác tin cậy. Hiện tại, đối tác FTA của ASEAN và Việt Nam đều là các quốc gia Đông Á. Đây là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất với kim ngạch khoảng 35 tỷ USD.
Cho đến nay, việc thiết lập FTA với các nền kinh tế lớn và năng động bậc nhất trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản đã mang đến nhiều cơ hội lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trên góc độ trực diện nhất, cơ hội xuất khẩu đối với các mặt hàng cụ thể trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia là rất đáng kể. Ví dụ với Nhật Bản, 79% xuất khẩu nông sản được hưởng ưu đãi thuế 0%. Mức thuế trung bình nhờ cam kết FTA đã giảm từ 8,1% xuống 4%. Các mặt hàng có lợi nhất là rau quả tươi, cà phê, chè, thịt lợn và các sản phẩm gỗ. Hàng thủy sản có thuế suất trung bình giảm từ 5,4% xuống 1,3%. Riêng đối với các sản phẩm công nghiệp, 100% thuế suất hàng công nghiệp đã chỉ còn 0% ngay trong năm 2010. Trong đó, mặt hàng có lợi nhất là dệt may, giày dép, hóa chất, điện và điện tử.
Hiện Việt Nam đang đàm phán FTA song phương với Chi Lê; tham gia đàm phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương; nằm trong chương trình đàm phán FTA ASEAN+3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), ASEAN+6 (thêm ấn Độ, Australia và New Zealand) và FTA song phương với Liên bang Nga, Liên minh châu Âu.
Về dài hạn, bức tranh về lợi ích xuất khẩu thường được nhìn nhận thông qua các nhân tố tác động đến mục tiêu hình thành năng lực cạnh tranh của đất nước. Cơ sở nhận diện lợi ích xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam chính là khả năng điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu khi tham gia các FTA.
Tìm phương thức cam kết phù hợp
Trong giai đoạn 2011 - 2020, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú cho rằng, mục tiêu của đàm phán FTA vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi ích của FTA không chỉ phụ thuộc vào vai trò định hướng của Nhà nước, mà quan trọng hơn chính là sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu những cam kết thuế quan, quy tắc xuất xứ hàng hóa cũng như các quy định về vệ sinh, kiểm dịch; tận dụng triệt để những lợi thế từ các FTA đã ký kết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng, tính cạnh tranh của hàng hóa mới thực sự là quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Hàng hóa của Việt Nam phải tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu thì mới mong mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung nâng chất lượng, giá trị và trách nhiệm đối với uy tín sản phẩm của mình.
Về phía Nhà nước, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu và nghiên cứu các phương thức cam kết phù hợp nhất với từng đối tác khi đàm phán FTA. Thông thường là theo phương thức chọn - cho, tức là tương tự như đàm phán trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, có đối tác lại muốn đàm phán theo phương thức chọn – bỏ, dựa trên các hiệp định hoặc mô hình cam kết mà họ đã ký kết với các đối tác khác. Việt Nam cần xử lý vấn đề này như thế nào cho phù hợp, linh hoạt mà vẫn bảo đảm quyền lợi của mình. Quan trọng hơn cả, phải xác định những thị trường nào thực sự tiềm năng để tiến hành đàm phán. Như vậy, cần có sự tham gia góp ý của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần phải xác định được thế mạnh của nước ta trong thời gian tới để thu hút các đối tác, vì thời của nhân công giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên dồi dào đã trôi qua.
Quang Nguyễn