08:22 | 20/08/2011
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú, mục tiêu của đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn 2011 - 2020 vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi thế từ FTA
Ngay khi là thành viên ASEAN năm 1995, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm thuế theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung nhằm thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA). Mặc dù vậy, theo Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương Ts Lê Quang Lân, quá trình tham gia FTA thực sự thay đổi về chất khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nước ta đã tham gia một cách sòng phẳng hơn với động cơ chính của mọi cuộc đàm phán là lợi ích trong quan hệ thương mại và đầu tư. Với FTA, Việt Nam cũng đã chứng tỏ mình như một đối tác tin cậy. Hiện tại, đối tác FTA của ASEAN và Việt Nam đều là các quốc gia Đông Á. Đây là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất với kim ngạch khoảng 35 tỷ USD.
Cho đến nay, việc thiết lập FTA với các nền kinh tế lớn và năng động bậc nhất trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản đã mang đến nhiều cơ hội lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trên góc độ trực diện nhất, cơ hội xuất khẩu đối với các mặt hàng cụ thể trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia là rất đáng kể. Ví dụ với Nhật Bản, 79% xuất khẩu nông sản được hưởng ưu đãi thuế 0%. Mức thuế trung bình nhờ cam kết FTA đã giảm từ 8,1% xuống 4%. Các mặt hàng có lợi nhất là rau quả tươi, cà phê, chè, thịt lợn và các sản phẩm gỗ. Hàng thủy sản có thuế suất trung bình giảm từ 5,4% xuống 1,3%. Riêng đối với các sản phẩm công nghiệp, 100% thuế suất hàng công nghiệp đã chỉ còn 0% ngay trong năm 2010. Trong đó, mặt hàng có lợi nhất là dệt may, giày dép, hóa chất, điện và điện tử.
Hiện Việt Nam đang đàm phán FTA song phương với Chi Lê; tham gia đàm phán với tư cách thành viên chính thức của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương; nằm trong chương trình đàm phán FTA ASEAN+3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), ASEAN+6 (thêm ấn Độ, Australia và New Zealand) và FTA song phương với Liên bang Nga, Liên minh châu Âu.
Về dài hạn, bức tranh về lợi ích xuất khẩu thường được nhìn nhận thông qua các nhân tố tác động đến mục tiêu hình thành năng lực cạnh tranh của đất nước. Cơ sở nhận diện lợi ích xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam chính là khả năng điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu khi tham gia các FTA.
Tìm phương thức cam kết phù hợp
Trong giai đoạn 2011 - 2020, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú cho rằng, mục tiêu của đàm phán FTA vẫn là thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nhiệm vụ cụ thể sẽ hướng vào việc cải thiện cán cân thương mại, ứng phó với bất lợi trong quá trình tự do hóa thương mại.
Lợi ích của FTA không chỉ phụ thuộc vào vai trò định hướng của Nhà nước, mà quan trọng hơn chính là sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu những cam kết thuế quan, quy tắc xuất xứ hàng hóa cũng như các quy định về vệ sinh, kiểm dịch; tận dụng triệt để những lợi thế từ các FTA đã ký kết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng, tính cạnh tranh của hàng hóa mới thực sự là quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Hàng hóa của Việt Nam phải tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu thì mới mong mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung nâng chất lượng, giá trị và trách nhiệm đối với uy tín sản phẩm của mình.
Về phía Nhà nước, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu và nghiên cứu các phương thức cam kết phù hợp nhất với từng đối tác khi đàm phán FTA. Thông thường là theo phương thức chọn - cho, tức là tương tự như đàm phán trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, có đối tác lại muốn đàm phán theo phương thức chọn – bỏ, dựa trên các hiệp định hoặc mô hình cam kết mà họ đã ký kết với các đối tác khác. Việt Nam cần xử lý vấn đề này như thế nào cho phù hợp, linh hoạt mà vẫn bảo đảm quyền lợi của mình. Quan trọng hơn cả, phải xác định những thị trường nào thực sự tiềm năng để tiến hành đàm phán. Như vậy, cần có sự tham gia góp ý của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần phải xác định được thế mạnh của nước ta trong thời gian tới để thu hút các đối tác, vì thời của nhân công giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên dồi dào đã trôi qua.
Quang Nguyễn
No comments:
Post a Comment