Saturday, May 21, 2011

13/03 Bản lĩnh văn hóa Việt

15:55 | 13/03/2011

Lịch sử còn ghi, ở thế kỷ 14, sau khi xâm chiếm nước ta, nhà Minh đã thực hiện chính sách đồng hóa, đốt sách, phá hủy văn bia hòng xóa bỏ nước Đại Việt. Và chắc chắn cả nghìn năm cai trị của phong kiến phương Bắc, chính sách hủy diệt và đồng hóa đó đã diễn ra rất nhiều lần. Nhưng sức sống của dân tộc Việt, mà trước hết là văn hóa Việt đã vô cùng mãnh liệt, cứ vượt lên đứng dậy từ tro tàn mà sống, mà phát triển...

Có được sức sống như vậy trước hết là phải có bản lĩnh văn hóa. Mà bản lĩnh văn hóa thì đầu tiên là ở chiều sâu văn hóa. Về hội Lim (Bắc Ninh) hôm 13 tháng Giêng vừa qua nghe hát Quan họ, tôi thấy văn hóa Việt thật là sâu thẳm: "Yêu nhau đứng ở đằng xa/ Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần". Văn hóa Việt không chỉ sâu mà còn huyền ảo. Phải chăng cả độ sâu và sự huyền ảo đã tạo nên sức mạnh?

Biểu diễn Quan họ Bắc Ninh Ảnh minh hoạ: Internet


Nền văn hóa có bản sắc ấy của chúng ta có thể sánh với bất cứ nền văn hóa nào của thế giới. Chúng ta không đánh giá thấp nền văn hóa của dân tộc nào, nhưng chúng ta cũng không cho phép ai hạ thấp nền văn hóa của chúng ta. Thời đại hội nhập kinh tế thế giới, thì giao lưu văn hóa giữa các nước là cần thiết. Nhưng giao lưu là để biết, để hiểu nhau, và có thể học hỏi những điều hay phù hợp, chứ không phải bỏ văn hóa của mình mà chạy theo văn hóa của người. Ngày Lễ Tình yêu (Valentine, 14/2) là của châu Âu chứ không phải là của thế giới. Hàng mấy nghìn năm chúng ta không biết có ngày lễ ấy, vậy mà ngàn đời nay ông cha ta đã yêu nhau và sống hạnh phúc. Những tình yêu bất tử ấy đã được gửi vào những lời ca tuyệt diệu: "Ra đường mắt mải nhìn anh/ Để chân em đá đổ thành nhà vua", "Ra về em có dặn rằng/ Nơi hơn người kết, nơi bằng đợi em", "Anh còn cái cối giã bèo/ Anh đem bán nốt để theo cô mình"... Vì vậy, dư luận nói chung đã đồng tình với quyết định của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hải Phòng không cấp giấy phép cho Công ty Cổ phần Truyền thông Thương hiệu Vàng tổ chức cuộc thi hôn 100 cặp đôi ở sân Cung Văn hóa Lao động Việt - Tiệp (Hải Phòng) chiều 13/2, vì nó không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đó là một quyết định đúng đắn. Đó là bản lĩnh của Văn hóa Việt. Những quyết định như thế cần phải được ủng hộ, được khuyến khích giữa lúc nhiều nơi nhiều năm qua đã thường xuyên để cho những tạp chất văn hóa của nước ngoài tràn ngập vào đời sống văn hóa của chúng ta.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề được thực hiện với tất cả các dân tộc qua mọi thời kỳ lịch sử. Bởi vì bản sắc văn hóa là linh hồn của một dân tộc, không có bản sắc văn hóa thì coi như dân tộc đó không còn. Dân tộc Việt Nam ta, qua bốn nghìn năm lịch sử đã hình thành, duy trì và phát triển một bản sắc văn hóa độc đáo. Nhưng đồng thời dân tộc ta cũng luôn luôn phải chống lại những ý đồ xâm lăng văn hóa nhằm xóa bỏ nền văn hóa của chúng ta. Cuộc đấu tranh ấy khi yên ả, lúc dữ dội, nhưng luôn luôn quyết liệt vì nó là sự mất còn của dân tộc. Ngày nay, cuộc đấu tranh ấy đang diễn ra quyết liệt hơn bao giờ hết bởi văn hóa ngoại đang có thuận lợi về nhiều mặt: pháp lý, tâm lý, tài chính... để thực hiện. Vì vậy, muốn giữ được dân tộc thì phải xây kè văn hóa thật vững, phải biết tự bảo vệ. Bài học thiếu cảnh giác của Mỵ Châu "Trái tim lầm chỗ để trên đầu", có ý nghĩa hết sức rộng lớn về chính trị, kinh tế và cả văn hóa, và vẫn mang tính thời sự.

Một phần tư thế kỷ hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta tự hào vì những thành tựu về kinh tế của chúng ta bao nhiêu thì chúng ta cũng lo lắng về sự phát triển về văn hóa của nước ta bấy nhiêu. Hai mươi nhăm năm qua, văn hóa nước ta phát triển hay là xuống cấp là câu hỏi còn băn khoăn của rất nhiều người khi trả lời. Đòi hỏi những người có trách nhiệm phải tổ chức nghiên cứu, hội thảo, kết luận và đặt ra được chiến lược phát triển và phương thức thực hiện đúng đắn nhất để đạt hiệu quả. Đó cũng là bản lĩnh của văn hóa Việt Nam trước đòi hỏi của dân tộc và thời đại.

Nguyên Quỳnh Thư

Các từ khóa theo tin:

(Nguồn: Báo Công an Nhân dân)

09/04 Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: Đổi mới việc học tập, quán triệt và triển khai các văn kiện Đại hội XI

09:13 | 09/04/2011

Đ/c Phạm Văn Linh
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TƯ

Nhân đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, triển khai Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đồng chí Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã trả lời phỏng vấn báo chí về những nhiệm vụ trọng tâm.

* Phóng viên: Xin đồng chí cho biết những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng?

* Đồng chí Phạm Văn Linh : Như chúng ta đã biết, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, mỗi Hội nghị Trung ương, việc triển khai nghiên cứu, học tập quán triệt Nghị quyết trong toàn Đảng, toàn dân là trách nhiệm chung của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành. Việc triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, quan trọng trong toàn Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011.

Mục đích của việc học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng trước hết là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm, hiểu rõ, hiểu sâu hơn quan điểm của Đảng, trên cơ sở đó xây dựng chương trình hành động, tạo ra sự thống nhất về mặt tư tưởng, đồng thuận xã hội để triển khai thực hiện. Đồng thời qua đợt triển khai, học tập Nghị quyết là dịp để chúng ta đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; uốn nắn những nhận thức lệch lạc.

Yêu cầu đặt ra đối với việc triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng là cần đảm bảo tinh thần đổi mới, nhấn mạnh những điểm mới, có hình thức phù hợp với từng đối tượng.

Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo chung, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức việc biên soạn, phát hành các tài liệu phục vụ học tập, quán triệt, phổ biến các văn kiện Đại hội XI. Các tài liệu được biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu tập trung làm rõ những nội dung cơ bản, những điểm mới trong các văn kiện, phù hợp với từng đối tượng.

Ban Tuyên giáo chủ trì phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, với các cơ quan, đơn vị có liên quan mở các lớp học tập, quán triệt nội dung các văn kiện Đại hội XI cho các đối tượng để triển khai việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, phổ biến nội dung các văn kiện Đại hội XI trong toàn xã hội. Sắp tới, Ban sẽ tiến hành tổ chức 15 lớp nghiên cứu, quán triệt các văn kiện Đại hội XI. Trong tháng 4 và đầu tháng 5 sẽ tổ chức 3 lớp dành cho các cán bộ chủ chốt tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

* Phóng viên: Thưa đồng chí, việc tuyên truyền, phổ biến các văn kiện Đại hội XI của Đảng có điểm gì mới, cần lưu ý?

* Đồng chí Phạm Văn Linh : Các văn kiện Đại hội XI cần tập trung học tập, quán triệt là: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Các văn kiện được thông qua tại Đại hội lần này là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) và 5 năm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội (2006 - 2010). Đó là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta; là sự tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; xác định mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng và không ít thách thức của cách mạng nước ta từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Trong tổ chức học tập, nghiên cứu, cần tổ chức thảo luận, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn, nhận thức rõ các quan điểm cơ bản, bên cạnh đó cần tập trung giới thiệu, nhấn mạnh những điểm mới của các văn kiện, làm rõ nội dung các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp, định hướng trong mỗi văn kiện.

Nội dung các văn kiện có nhiều điểm mới. Ví dụ: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 201l), có nhiều điểm mới nhưng vẫn đảm bảo tính kế thừa, trung thành với Cương lĩnh 1991 trên những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng có bổ sung phát triển, căn cứ vào đặc điểm của tình hình mới, bối cảnh mới, yêu cầu phát triển của đất nước. Những nội dung mới này được phân tích, luận giải làm rõ hơn, đảm bảo tính kế thừa và nguyên tắc kiên định chủ nghĩa xã hội.

Các văn kiện Đại hội XI có nhiều điểm mới bổ sung, phát triển về: đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .v.v. Các quan điểm mới trong các văn kiện đảm bảo tính thống nhất, thể hiện sự nhất quán của Đảng ta trong việc làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cụ thể hóa trong từng giai đoạn cụ thể, trong từng chặng đường cụ thể. Có thể nói rằng, nội dung các văn kiện có nhiều điểm mới, cần làm rõ những luận điểm lớn, luận điểm cơ bản, để cung cấp cho phù hợp với các đối tượng khác nhau.

* Phóng viên: Xin đồng chí nói rõ hơn về việc đổi mới phương thức tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các văn kiện Đại hội XI của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả.

* Đồng chí Phạm Văn Linh : Việc đổi mới phương thức tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI sẽ được tiến hành theo hướng có hình thức phù hợp với từng loại đối tượng. Lớp dành cho cán bộ chủ chốt, cán bộ nghiên cứu, báo cáo viên, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các học viện, các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Đây là các đồng chí chịu trách nhiệm chính trong chỉ đạo điều hành triển khai nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết. Do vậy cần nghiên cứu sâu các nội dung cơ bản, các điểm mới, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quan điểm, giải pháp; từ đó liên hệ thực tiễn và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế sau khi học tập.

Lớp dành cho cán bộ, đảng viên cơ sở sẽ được tổ chức học tập, quán triệt một cách thiết thực, gắn với thực tiễn địa phương, cơ sở để người học nắm vững các luận điểm cơ bản và có khả năng vận dụng vào thực tiễn đời sống, công tác.

Bên cạnh đó còn có các hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân ở trong nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Ban Tuyên giáo Trung ương đã xây dựng tài liệu với 60 câu hỏi - đáp với cách diễn đạt ngắn gọn, nhấn mạnh những nội dung phù hợp với những đối tượng này.

Ban Tuyên giáo Trung ương, các cấp ủy Đảng sẽ tổ chức các lớp dành cho cán bộ, đảng viên các cơ quan báo chí xuất bản, các hội văn học- nghệ thuật, hội khoa học- kỹ thuật, các văn nghệ sỹ, trí thức tiêu biểu, các chức sắc tôn giáo…

Các đối tượng khác nhau sẽ có hình thức truyền đạt khác nhau với những nội dung cụ thể. Với cách làm như vậy sẽ đảm bảo việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI thiết thực và hiệu quả hơn.

Cần coi trọng vai trò của đồng chí bí thư cấp ủy trong chỉ đạo việc học tập, quán triệt nội dung các văn kiện Đại hội XI, xây dựng chương trình hành động của đảng bộ; truyền đạt nội dung của các văn kiện Đại hội XI; chủ trì thảo luận và thông qua chương trình hành động của đảng bộ. Trong trường hợp cần thiết có thể đề nghị tổ báo cáo viên của cấp trên hoặc các đồng chí có khả năng trong cấp ủy hỗ trợ việc truyền đạt; lựa chọn đội ngũ báo cáo viên nòng cốt đi dự các lớp do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức để sẵn sàng hỗ trợ truyền đạt nội dung các văn kiện Đại hội XI cho cấp ủy cấp dưới.

* Phóng viên : Trân trọng cảm ơn đồng chí !

Các từ khóa theo tin:

(Theo TTXVN)

13/04 Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Đại hội lần thứ XI của Đảng

17:26 | 13/04/2011

(ĐCSVN) - Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật vừa phối hợp tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Đại hội lần thứ XI của Đảng”. Hơn 70 tham luận tại Hội thảo đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối, quan điểm cũng như các chủ trương, giải pháp chiến lược về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nêu trong Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đề cao ý thức trách nhiệm và quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vào cuộc sống.

Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Tiến Quốc

Trong phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Tiến Quốc - Giám đốc Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng nêu rõ: Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của đất nước: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội Đảng lần thứ XI và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).Các văn kiện được thông qua tại Đại hội đã thể hiện sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn, là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta; Tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển quan điểm và đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đã xác định mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản trong tham luận “Tính đặc thù theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta” đã phân tích sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tham luận khẳng định: “Phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ nghĩa nền sản xuất. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của kinh tế thị trường ở nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. Ở nước ta những định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế là: Thứ nhất, phát triển nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thứ hai, phát triển nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Thứ ba, xây dựng một nền kinh tế thị trường hoà nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng. Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là: tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển... Ở nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm các yêu cầu sau: tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ về công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu "mọi lợi ích đều vì dân", giải phóng con người, con người phát triển toàn diện. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế khác phát triển theo sự quản lý của Nhà nước. Tính năng động của cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của Nhà nước. Đa dạng các hình thức phân phối, phân phối theo lao động ngày càng chi phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc ngày càng tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh.”

Để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo PGS.TS Vũ Văn Phúc những giải pháp sau: “Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế

PGS.TS Vũ Văn Phúc

nhiều thành phần. Hai là, mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ba là, tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Bốn là, đẩy mạnh cách mạng khoa học - công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Năm là, giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Sáu là, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảy là, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường.”

GS.TS Đỗ Thế Tùng trong tham luận “Vấn đề phát triển bền vững trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam”, đã tóm lược những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010), đã đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tuy nhiên, GS.TS Đỗ Thế Tùng cũng đưa ra nhận định: Sự phát triển về mọi mặt của nước ta chưa bền vững, cả về kinh tế, văn hóa - xã hội và bảo vệ môi trường. Kinh tế tăng tưởng chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng suất lao động thấp. Quản lý còn yếu kém, gây lãng phí, thất thoát lớn. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng thiếu việc làm ở thành thị và nông thôn còn cao. Tiền lương không động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ phân dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe còn thấp. Tệ nạn tham nhũng, quan liêu, các tệ nạn xã hội vẫn rất đáng lo ngại.”.

Để khắc phục những mặt hạn chế trên, GS.TS Đỗ Thế Tùng chủ trương: “Trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh, quốc phòng, phát triển nhanh và bền vững được coi là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020”. GS.TS Đỗ Thế Tùng đã đề ra những giải pháp như: Để phát triển kinh tế, “phải đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Về văn hóa, xã hội: “Để phát triển bền vững phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế”. Về bảo vệ môi trường, cần “Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ lãnh đạo các cấp về bảo vệ môi trường. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi; xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường”.

GS.TS Đỗ Thế Tùng

Trong tham luận “Quan điểm của Đại hội Đảng XI về phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Thiếu tướng, GS. TS Nguyễn Văn Tài nêu rõ: “Các quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là kết quả của một quá trình đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng. Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đến thắng lợi”. Theo Thiếu tướng, GS. TS Nguyễn Văn Tài, vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ được Đảng ta nhận thức và thực hiện ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Qua 25 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan trọng trong nhận thức về dân chủ. Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là "Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân". Đảng ta đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa: Dân chủ gắn liền với quyền làm chủ của nhân dân; dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một mục tiêu lớn, một nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Cũng theo Thiếu tướng, GS. TS Nguyễn Văn Tài: Tthực chất của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và nhân dân, nhằm huy động mọi nguồn lực để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Mục tiêu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh; giữ ổn định chính trị, tạo tiền đề đẩy mạnh sự phát triển toàn diện đất nước; tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới. Nội dung cơ bản phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa; nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hoá quan điểm đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý điều hành xã hội để thực hiện đường lối của Đảng và lợi ích của nhân dân; các tổ chức chính trị và tổ chức xã hội hoạt động đúng đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm thể hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ có tổ chức của các tầng lớp nhân dân; tăng cường mở rộng hơn nữa dân chủ trực tiếp. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trực tiếp xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời mọi chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải trực tiếp phản ánh lợi ích của đa số nhân dân.”

Tham luận “Phát huy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới” của PGS. TS Trần Văn Phòng đã khẳng định vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới là sự nghiệp của toàn dân, chỉ có phát huy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mới có thể làm tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới hiện nay. PGS.TS Trần Văn Phòng nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Truyền thống ấy đã được hun đúc, bồi đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nó trở thành giá trị vững bền, là “chất keo” kết dính tự nhiên, là mạch nguồn, là nhân tố quyết định sự tồn vong của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng trước hết là phụ thuộc vào việc phát huy được hay không vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc… Nhận thức rõ ý nghĩa đó, Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”. Trên tinh thần ấy, tại Đại hội lần thứ X,

PGS.TS Nguyễn Văn Đặng

Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Để tăng cường, củng cố và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới,PGS. TS. Trần Văn Phòng chủ trương tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, cần đặt con người vào trung tâm của sự phát triển, mọi chính sách phát triển phải lấy con người là mục tiêu, tạo mọi điều kiện để con người phát huy tốt nhất những năng lực bản chất của mình.

Thứ ba, phải coi trọng việc tăng cường, củng cố khối liên minh công - nông - trí trong điều kiện hiện nay.

PGS. TS. Trần Văn Phòng nhấn mạnh: “Lịch sử của dân tộc ta đã chứng tỏ khi nào sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy thì đất nước ta được phát triển, biên cương của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc, lòng dân an bình, xã hội phát triển về mọi mặt. Do vậy, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đòi hỏi phải đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng, phát huy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có như vậy, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc mới vững chắc.”

Trong tham luận “Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp”, PGS. TSKH Nguyễn Văn Đặng đã khái quát: “Trong suốt quá trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Đó là một quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đã đem lại những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển những thành tựu của đổi mới, đề ra quyết sách quan trọng cho những năm sắp tới”.

Sau khi điểm lại quá trình phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, từ Đại hội lần thứ III của Đảng chủ trương phải lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm, nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cho đến Đại hội XI của Đảng, kế thừa và phát triển những thành tựu của quá trình đổi mới, đã xác định: "Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội". Tác giả khẳng định: “Nhìn chung, tư duy và đường lối đổi mới của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp đã được thể chế hoá, được các ngành, các cấp tích cực chỉ đạo thực hiện, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường đồng thuận xã hội”.

Theo PGS. TSKH Nguyễn Văn Đặng, đạt được những thành tựu quan trọng như trên, nguyên nhân là do những chính sách đổi mới về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất đã tác động khơi dậy, phát huy các nguồn lực để phát triển; Nhà nước đã kịp thời cụ thể hoá, thể chế hoá các chủ trương của Đảng; các chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp quy luật khách quan, phù hợp thực tiễn của đất nước, phù hợp lòng người, được nhân dân đồng tình hưởng ứng.

Thiếu tướng - PGS.TS Trương Thành Chung

Tuy nhiên, theo tác giả, trong xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất, còn những hạn chế, dẫn đến cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất. Trong đó, như Đại hội XI của Đảng nhận định, "trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan". Đại hội XI đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, yếu kém là: "Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước"; "Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất"; "Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu". Trong thực tế vẫn còn tồn tại sự e ngại chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế tư nhân, chưa có thái độ dứt khoát đối với những hợp tác xã tồn tại chỉ mang tính hình thức... Vì vậy, cần từ thực tiễn, tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới về cả nhận thức và chỉ đạo thực hiện để giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp trong những năm sắp tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Trong tham luận với nhan đề “Nhận thức về xu thế phát triển của lịch sử và tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, PGS.TS Lê Văn Yên đã phân tích sâu sắc về xu thế phát triển của các nước và khu vực trên thế giới hiện nay, như: Xu thế toàn cầu hóa. Xu thế tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định và những vấn đề toàn cầu cấp bách. Xu thế phục hồi và tăng cường ảnh hưởng của các Đảng Cộng sản. Xu thế độc lập tự chủ, chống sự can thiệp, áp đặt. Xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản”. Tham luận nhấn mạnh: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội PGS.TS Lê Văn Yên cũng khẳng định: “Tình hình thế giới và trong nước đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều nội dung liên quan được Đảng ta nhận thức sâu sắc và giải quyết có hiệu quả, trong đó có nhận thức về xu thế phát triển của lịch sử và tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam… Một lần nữa chúng ta khẳng định: Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng chiến lược về con đường phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là ngọn cờ chiến đấu của Đảng và dân tộc ta vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là nền tảng lý luận, tư tưởng, chính trị, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và nhân dân ta hiện nay cũng như trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước ta nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vững bước đi tới tương lai.”.

Một số tham luận khác đọc tại Hội thảo như: “Quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển” của Đại tá, PGS. TS Phạm Xuân Hảo, “Một số vấn đề về bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá”của PGS. TS Nguyễn Hoàng Giáp, Công tác lý luận với nhiệm vụ tăng cường xây dựng Đảng về chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI” của Đại tá, PGS. TS Nguyễn Văn Thắng, “Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc” của Thiếu tướng, PGS. TS Trương Thành Trung… đã đặt ra những vấn đề rất đáng quan tâm, thu hút được sự chú ý của đông đảo đại biểu tham dự hội thảo.

Trong phần kết luận hội thảo, PGS. TS Nguyễn Viết Thảo, Tổng Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: Với trên 70 bài tham luận của các nhà khoa học gửi tới Hội thảo, với nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu, quán triệt, luận giải làm sâu sắc nhiều vấn đề khác nhau, song các bài viết dù được trình bày và chưa có điều kiện trình bày tại Hội thảo này đều tập trung vào chủ đề: “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Đại hội lần thứ XI của Đảng”. Bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung Hội thảo, các tác giả đều khẳng định thành công và ý nghĩa lịch sử của Đại hội lần thứ XI của Đảng, thảo luận và làm rõ nhiều nội dung quan trọng trong văn kiện, quán triệt và vận dụng vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận và làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các tham luận khẳng định, Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

PGS.TS Lê Văn Yên

Minh, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ thắng lợi của dân tộc ta gần một thế kỷ qua. Sự kiên định này chứng tỏ Đảng ta là một đảng Mác - Lênin chân chính, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Điều đó còn chứng minh rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đảm bảo chắc chắn để dân tộc Việt Nam tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, vững bước trên con đường xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hai là, sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đã có nhiều bài tham luận đề cập và đi sâu nghiên cứu, làm rõ nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xu thế phát triển của lịch sử và tính đúng đắn trong lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tính cách mạng và khoa học trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xu thế phát triển của lịch sử là nền tảng cho tính đúng đắn trong sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điểm cốt lõi trong tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện tập trung ở nhận thức của đảng cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và việc giải quyết mối quan hệ đó trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Những nhận thức mang tính cách mạng và khoa học, sự lựa chọn đúng đắn đó tạo nên sức mạnh vô địch, giúp Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam ở mỗi thời kỳ lịch sử, và nó được thâm nhập vào quần chúng, được quần chúng tự giác tiếp nhận.

Ba là, về phát triển, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đã có nhiều tham luận gửi tới Hội thảo đề cập về vấn đề này. Các tham luận tập trung khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa là một bước đột phá chiến lược để phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Chỉ rõ tính đặc thù của theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nội dung chủ yếu của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Thể chế bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối; bảo đảm các quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền quản lý của Nhà nước; bảo đảm sự phân bổ các nguồn lực theo chiến lược, quy hoạch và theo nguyên tắc thị trường.Về mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay đang tiếp tục hoàn thiện có vai trò hết sức to lớn. Đó là: Định hướng, tạo khung khổ cho việc tổ chức, hoạt động của nền kinh tế; tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội của nền kinh tế; đóng vai trò chủ thể và các công cụ quản lý nền kinh tế quốc dân; góp phần từng bước hoàn thiện và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường; góp phần tạo ra những tiền đề, điều kiện hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Các tham luận còn đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

PGS.TS Nguyễn Viết Thảo

Bốn là, về vấn đề phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Đây là phần có nhiều tham luận và góc độ tiếp cận nghiên cứu cũng rất phong phú, sâu sắc. Khái quát ở những nội dung chính như: Khẳng định bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất chế độ, là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước. Quá trình phát triển dân chủ ở Việt Nam. Làm rõ quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Một số ý kiến làm rõ về phát huy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về phương hướng, giải pháp củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm là, về phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường..

Một số tham luận đã khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với phát triển văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. Phương hướng xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Làm rõ vấn đề chăm lo củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, phát triển hệ thống thông tin đại chúng; đề xuất ý kiến về đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản.

Một số tham luận đề cập làm rõ quan điểm của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, kinh tế tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Các tham luận làm rõ các vấn đề: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; về bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá. Khẳng định và làm rõ về vấn đề tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khẳng định tính đúng đắn và làm rõ quan điểm của Đảng về phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiếp tục hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Bảy là, về vấn đề xây dựng Đảng.

Về công tác xây dựng Đảng, các ý kiến tham luận tập trung làm rõ và khẳng định ý nghĩa của việc Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định những nhiệm vụ quan trọng nhằm tiếp tục chỉnh đốn, xây dựng và tự đổi mới Đảng với mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Về tính cấp thiết của việc Đại hội nhấn mạnh đến sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng; đến sự gắn bó mật thiết giữa đảng với giai cấp, với nhân dân và dân tộc như một phẩm chất cốt lõi nhất thể hiện bản chất và sức sống của Đảng. Làm rõ cơ sở mà Đại hội khẳng định: xây dựng Đảng là một nhiệm vụ trọng yếu, là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng; những yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn để Đảng thực sự xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Tám là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Các bài tham luận tập trung làm rõ các quan điểm của Đảng về các nội dung: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội nhân dân Việt Nam; Xây dựng Đảng bộ Quân đội; những vấn đề đặt ra trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, xây dựng nhà trường quân đội; nghiên cứu khoa học xã hội và phát triển tiềm lực khoa học, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ, khoa học, giáo dục trong nhà trường quân đội.

Tại Hội thảo, các tham luận và ý kiến trình bày tại Hội thảo đều biểu thị sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối, quan điểm và quyết tâm của Đảng trong tổ chức thực hiện những quyết sách trên tất cả các lĩnh vực cơ bản và trọng yếu của sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, những quyết sách đó có vai trò đặc biệt quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo trong toàn bộ quá trình triển khai, tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng./.

Các từ khóa theo tin:

Đào Nguyên Lan


18/04 Cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập với việc vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại tỉnh Khánh Hòa

15:52 | 18/04/2011

(ĐCSVN) - Cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập vào Khánh Hòa những năm 1925 – 1926. Khi vào Khánh Hòa, cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập vừa làm nghề dạy học, vừa tuyên truyền giác ngộ những người yêu nước ở địa phương, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, viên chức làm cách mạng theo tư tưởng Mác - Lê nin, góp phần rất quan trọng vào cuộc vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại tỉnh Khánh Hòa vào ngày 24/2/1930.

Thầy Hà Huy Tập cùng học trò của mình tại Khánh Hòa (Ảnh tư liệu)

Trong những năm 1925-1926, cùng với thầy giáo Ngô Đức Diễn, thầy giáo Hà Huy Tập được cử vào dạy học ở Khánh Hòa. Lúc bấy giờ, thầy Hà Huy Tập là một trí thức yêu nước, một trong số những người tham gia thành lập Hội phục Việt (7/1925) sau đổi thành Tân Việt cách mạng Đảng, gọi tắt là Đảng Tân Việt ở Nghệ Tĩnh.

Ở Khánh Hòa, thầy Hà Huy Tập dạy học ở Trường Tiểu học Pháp-Việt Nha Trang (nay là trường PTTH Nguyễn Văn Trỗi), thầy Ngô Đức Diễn dạy ở huyện Tân Định (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Các thầy đã đem lập trường yêu nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tuyên truyền vận động trong nhà trường và viên chức; tuyên truyền, giác ngộ được nhiều giáo viên, học sinh và thanh niên về công cuộc cứu nước theo tư tưởng cộng sản.

Ngoài việc dạy ở trường, thầy Hà Huy Tập và thầy Ngô Đức Diễn còn vận động tổ chức các lớp dạy ban đêm cho công nhân. Ở Nha Trang, thầy Tập tổ chức được hai lớp cho người lớn và một lớp tuổi trẻ, chia làm hai bậc học: người biết đọc, biết viết và người mới bắt đầu học chữ. Đồng chí Hà Huy Tập kể lại: “Vào tháng 3 năm 1926, tôi lập 3 lớp học buổi chiều cho công nhân ở Nha Trang. Những lớp này có hơn 150 công nhân thường đến học. Mục đích giả của tôi là đấu tranh chống nạn mù chữ, nhưng mục đích thật của tôi là tập hợp những công nhân để dễ dàng cho việc tuyền truyền bí mật. Những chi phí về thắp sáng hoặc mua sách vở phát cho công nhân đều do tiền của tôi và các bạn của tôi gom góp lại”. Đây là những người lao động và dân nghèo thị xã, có người làm thợ hồ, thợ mộc, thợ máy, thợ cắt tóc, thợ rèn, phụ lái xe, kéo xe. Bà con đều siêng năng, học tập chăm chỉ, mến phục các thầy, vừa học chữ vừa học các bài giảng thường thức. Trong lúc giảng, thầy nói đến quyền làm người, kể lịch sử nước ta, nêu gương anh hùng liệt sĩ, ca tụng giòng giống Lạc Hồng. Tình yêu đất nước, thương đồng bào, thương người nghèo ghi sâu vào lòng học sinh và những người lao động. Đồng chí Hà Huy Tập kể: “Cũng trong thời kỳ này, tôi là thành viên của Thư viện tỉnh. Trong một cuộc họp của Thư viện, tôi đề nghị mua một số sách viết về “Sự lật đổ” và những tờ báo Annam (Dân chủ), Người cùng khổ, Hồn Việt Nam (Báo cách mạng ở Pari). Khi đó, tôi bị viên công sứ kết tội là người chống Pháp. Từ ngày đó, tôi là đối tượng bị theo dõi bí mật và bị chính quyền ngược đãi” .

Trước những hoạt động sôi nổi của thanh niên, giáo viên, học sinh, chính quyền thực dân Pháp ở Khánh Hòa tìm cách đối phó với Hà Huy Tập. Năm 1926, công sứ Pháp tại Nha Trang ra lệnh trục xuất ông ra khỏi tỉnh. Tháng 8/1926, Hà Huy Tập chuyển ra Vinh hoạt động.

Thời điểm những năm 1925-1926 là thời điểm trong các phong trào hoạt động yêu nước có sự tác động của một chất lượng mới. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, lấy tên là “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”. Nếu như trước đó, các phong trào yêu nước còn mang đậm màu sắc tư sản, tiểu tư sản, còn bó hẹp trong các tầng lớp trên, thì sau đó đã có tính chất giai cấp công nhân và đi vào quần chúng lao động. Tính chất này tác động vào những đảng viên Đảng Tân Việt như Hà Huy Tập và vào Khánh Hòa. Lớp thanh niên tiến bộ ngưỡng mộ tên tuổi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đón nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga. Chính thời điểm này những thầy giáo như Hà Huy Tập đã tiếp thu tư tưởng cách mạng với chất lượng mới, đã truyền nhiệt huyết và kiến thức của mình cho những người mình dạy học và tiếp xúc.

Những hoạt động tích cực đó bước đầu đã cổ vũ, tập hợp được học sinh, thanh niên, đưa họ lên mặt trận đấu tranh mới. Trong hai năm 1925- 1926, trong giới giáo viên, học sinh, thanh niên Khánh Hòa đã có những hoạt động đấu tranh sôi nổi. Đáng chú ý là hai cuộc đấu tranh của giáo viên, học sinh, thanh niên mang tính chất toàn quốc là cuộc đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh. Trước những hoạt động sôi nổi của thanh niên, giáo viên, học sinh, chính quyền thực dân tỉnh Khánh Hòa tìm cách đối phó. Chúng điều động thầy giáo Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn ra các tỉnh phía ngoài. Bốn giáo viên khác ở Trường tiểu học Pháp - Việt Nha Trang cũng bị cách chức, một số học sinh bị đuổi học. Tuy hai thầy giáo Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn không còn hoạt động ở Khánh Hòa nhưng những tư tưởng cách mạng của các thầy đã thức tỉnh lòng yêu nước trong tầng lớp thanh niên, học sinh theo khuynh hướng cộng sản.

Từ những hoạt động tích cực của thầy Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn, những cơ sở đầu tiên của Đảng Tân Việt đã bắt đầu nhen nhóm, gây dựng tại 2 địa phương trong tỉnh là thị xã Nha Trang và huyện Tân Định (nay là thị xã Ninh Hòa). Ở Nha Trang, cơ sở đầu tiên của Đảng Tân Việt là các anh Bùi Giáo, nhân viên Sở Lục lộ; Nguyễn Khắc Tài nhân viên Sở Hỏa xa kiều lộ. Ở huyện Tân Định có anh Dương Chước, Lê Dung. Đây là những hạt giống cộng sản đầu tiên được gieo mầm trên đất Khánh Hòa.

Tháng 3/1927, Hà Huy Tập lại rời Vinh đi vào Nam và hoạt động ở Sài Gòn. Trong những năm 1927 - 1928, đồng chí liên lạc, tìm gặp những học sinh của mình ở Khánh Hòa vào Sài Gòn và trực tiếp làm giảng viên chính một số khóa huấn luyện chính trị do Kỳ bộ Nam kỳ tổ chức tại Sài Gòn. Đầu năm 1928, đồng chí Lê Dung được cơ sở của Đảng Tân Việt Khánh Hòa cử đi học lớp huấn luyện chính trị ở Sài Gòn. Khoá học này do đồng chí Hà Huy Tập làm giảng viên chính. Học xong đồng chí Lê Dung về lại Khánh Hòa làm nhiệm vụ truyền đạt lại cho các đảng viên ở tỉnh.

Trong những tháng cuối năm 1929, cả nước ta diễn ra cuộc đấu tranh để thành lập Đảng. Tổ chức Đảng Tân Việt ở Khánh Hòa nằm trong Liên tỉnh Ngũ Trang bao gồm 5 tỉnh cực Nam Trung bộ và Nam Tây Nguyên. Khi Tân Việt tự cải tổ thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thì Liên tỉnh Ngũ Trang được chuyển thành một bộ phận của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Các cơ sở Đảng Tân Việt chuyển sang Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, củng cố các chi bộ, thành lập Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Bí thư và gồm các đồng chí Lê Dung, Đỗ Long, Trương Hành - những đảng viên đầu tiên của Đảng Tân Việt ở Khánh Hoà khi Hà Huy Tập vào hoạt động ở Khánh Hòa.

Hệ thống tổ chức của Đảng bộ Tân Việt Khánh Hòa chuyển sang Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, rồi sau đó chuyển thành Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong thời gian ngắn và ngày thành lập chính thức của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa là ngày 24/2/1930 - ngày có quyết định công nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập (24/4/1906- 24/4/2011) là dịp để chúng ta ôn lại và tôn vinh tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường, trọn đời vì dân, vì nước. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí đã để lại cho chúng ta bài học quý báu về lý tưởng cộng sản, tinh thần học tập, rèn luyện, phấn đấu và phục vụ vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa luôn luôn ghi nhớ công lao to lớn đồng chí Hà Huy Tập - Cố Tổng Bí thư của Đảng, người thầy giáo kính yêu đã góp phần to lớn trong thời kỳ đầu vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa.

Các từ khóa theo tin:

Thu Hồng (CTV)


06/05 Ðiện Biên Phủ - Thắng lợi vĩ đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam


09:52 | 06/05/2011

Chiến thắng Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)

Cách đây đúng 57 năm, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta đã làm nên Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, chiến công chói lọi nhất, đỉnh cao nhất của cuộc tiến công chiến lược Ðông-Xuân 1953 - 1954.

Ðánh giá tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: 'Ðó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công'(1).

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) là một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân do toàn dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Trong chiến dịch Ðông-Xuân 1953 - 1954, chiến tranh nhân dân Việt Nam được nhân lên một tầm cao mới. Với tinh thần 'tất cả để đánh thắng', cả nước cùng ra trận, cả nước cùng đánh giặc trên khắp mọi chiến trường.

Nhân dân khắp mọi miền đất nước vừa tích cực động viên chồng con, anh em tòng quân, nhập ngũ lên đường ra tiền tuyến; gia nhập lực lượng vũ trang địa phương đánh địch tại chỗ; đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ chiến đấu, vừa tích cực đóng góp lương thực, thực phẩm để bộ đội 'ăn no, đánh thắng'.

Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương được thành lập do đích thân Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Ðồng làm Chủ tịch. Cùng với đó, Hội đồng cung cấp mặt trận cấp liên khu như Liên khu 4, Liên khu 3, Liên khu Việt Bắc và cấp tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Thọ, Sơn La... được thành lập. Các hội đồng đó làm nhiệm vụ tổ chức huy động sức người, sức của ở hậu phương chi viện cho tiền tuyến, nhất là cho mặt trận Ðiện Biên Phủ. Tính riêng trong Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260 nghìn dân công (tính ra thành 14 triệu ngày công), 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về bảo đảm vật chất, đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận là hơn hai chục nghìn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô(2).

Phục vụ Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, chúng ta đã huy động sức người, sức của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Tây Bắc, Việt Bắc và nhiều tỉnh vùng tạm chiếm đồng bằng Bắc Bộ. Hàng trăm nghìn đồng bào đã hăng hái đi thanh niên xung phong, dân công tham gia làm đường, vận tải tiếp tế, không quản ngày đêm, không sợ gian khổ, hy sinh, dũng cảm mưu trí, quyết tâm đưa hàng ra mặt trận, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu kịp thời.

Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho một lực lượng ở xa hậu phương, phục vụ chiến dịch, với thời gian dài ngày, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã giải quyết thành công do biết phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Chiến dịch Ðông - Xuân 1953-1954 là một điển hình thành công của chiến tranh nhân dân Việt Nam về sử dụng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích), về sự phối hợp giữa vận động chiến và du kích chiến, giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, giữa chiến trường chính và chiến trường phối hợp. Với các đòn tiến công chiến lược đó, ta đã tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với hàng trăm vạn dân, và quan trọng là đã phân tán cơ động chiến lược của thực dân Pháp ra nhiều nơi, buộc địch lâm vào thế bị động đối phó.

Chiến dịch Ðiện Biên Phủ cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của bộ đội chủ lực. Bộ đội chủ lực là nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng, có tác dụng quyết định trong việc tiêu diệt sinh lực chủ yếu của địch. Với lực lượng gồm bốn đại đoàn bộ binh 308, 312, 316, 304 (thiếu một trung đoàn) và một đại đoàn công pháo (351), bộ đội chủ lực ta đã tạo thành 'quả đấm mạnh' tiến công, đập tan hệ thống phòng ngự tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Ðông Dương lúc bấy giờ. Bộ đội chủ lực mạnh, với các đòn tiến công quân sự mạnh ở Lào, đông - bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên, Tây Bắc Việt Nam, nhất là ở Ðiện Biên Phủ, đã phân tán lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh vùng sau lưng địch phát triển.

Thắng lợi của ta trong chiến dịch Ðông-Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Ðiện Biên Phủ, khẳng định đường lối xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) của Ðảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Ba lực lượng ấy dựa vào nhau, cùng xây dựng, phát triển, kết hợp và phối hợp với nhau tạo thành sức mạnh vô địch của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.

Sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam thể hiện trong Chiến dịch Ðiện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối cách mạng, đường lối chính trị, quân sự; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Ðảng ta. Ðồng thời còn bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống và giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.

Với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nói chung, Chiến dịch Ðiện Biên Phủ nói riêng, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta luôn trân trọng sự phối hợp chiến đấu với nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Cam-pu-chia; luôn ghi nhớ, biết ơn sự giúp đỡ tích cực có hiệu quả của Chính phủ, nhân dân Trung Quốc, Liên Xô (trước đây) và các nước khác; sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng cách mạng tiến bộ trên toàn thế giới; song luôn nhận thức được rằng nhân tố quyết định làm nên chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc do Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Ðại tá, TS Trần Văn Thức (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)


-----------------------------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 220.
(2) Ban Tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 202.

Các từ khóa theo tin:

(Nguồn: Báo Nhân Dân)

12/05 Bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh

11:24 | 12/05/2011
(ĐCSVN) - Vừa tròn một thế kỷ, kể từ khi Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh rời bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 - 5/6/2011). Đối với Nguyễn Tất Thành, đây không phải là quyết định giản đơn, tình cờ, mà là kết quả tổng hợp của một quá trình phân tích, lý giải khoa học những nhân tố thuận -nghịch của bối cảnh trong nước và thế giới tác động đến cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, để lựa chọn đúng hướng đi và xác định con đường cứu nước thành công.

1. Đối với tiến trình giải phóng dân tộc, đây là sự kiện mang nội dung cách mạng và ý nghĩa lịch sử lớn lao. Bởi lẽ, sự kiện lịch sử này vừa là mốc kết thúc một quá trình tổng hợp những yếu tố chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, vừa là bước khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh hồi đầu thế kỷ XX. Vì vậy, ý nghĩa và tầm vóc lớn lao của nó mãi mãi được ghi nhận và phát huy trong suốt hành trình cứu nước của Người trước đây và trên con đường đổi mới đất nước hiện nay.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920 (ảnh tư liệu)


Trước hết, cần hiểu rõ khái niệm "tác động của bối cảnh lịch sử" là gì? Theo chúng tôi: Một là, Không phải toàn bộ bối cảnh lịch sử (trong nước và thế giới) đều tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh. Do đó, bài viết này sẽ không nghiên cứu toàn bộ bối cảnh cuộc hành trình, mà chỉ đi sâu nghiên cứu những sự kiện lịch sử được Người biết đến và gây tác động đến quá trình hình thành con đường cứu nước của Người. Hai là, bối cảnh không phải là bức tranh bất động mà nó thường xuyên thay đổi và gây ảnh hưởng đến xu thế phát triển, hoạt động của mỗi tổ chức, con người. Vì vậy, bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh bao gồm những sự kiện lịch sử mà Người nhận thức, mà trước hết phải kể đến những sự kiện mang ý nghĩa thời đại, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam...

Điểm khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh là sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911. Tiếp đó là quá trình vừa lao động, vừa học tập lý luận và hoạt động thực tiễn để tìm ra con đường giải phóng dân tộc thành công. Đó là những năm tháng bôn ba đầy khó khăn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ở nhiều quốc gia, châu lục. Vì vậy, nghiên cứu tác động của bối cảnh lịch sử đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những nhân tố hình thành quyết tâm và hướng đi mà còn nghiên cứu làm rõ hàng loạt yếu tố mới Người "bắt gặp"- nhận thức trong quá trình hình thành đường lối cứu nước của mình.

Vì vậy, ở đây không cần thiết phải thống kê đầy đủ tình hình trong nước và thế giới, cũng không phải mô tả kỹ lưỡng những sự kiện lịch sử đã diễn ra vì đó là bối cảnh chung mà bất kỳ con người đương thời nào đều sống trong đó, dù họ có nhận thức được "bối cảnh" ấy hay không.

Vậy bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành quyết tâm và hướng xuất dương tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là gì ?

2. Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống mọi người dân (trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau thời kỳ "bình định", thực dân Pháp thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" - thực chất là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn, càng thêm khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên đây - đồng nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.

Để giải quyết mâu thuẫn trên, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi với mục tiêu "Phen này quyết chống cả Triều lẫn Tây". Đó là phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài...rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm... Đó là trang sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra sôi nổi, rộng khắp các vùng miền, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh cuối cùng đều thất bại. Bối cảnh lịch sử này, sau này, Hồ Chí Minh viết trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay: "Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam"[1]

Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành công. Câu hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam ? đến lúc này vẫn chưa có lời giải.

Bối cảnh trên đây, sau này được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả lời nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ"[2]!?

Xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước, trọng nghĩa, Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Tuổi học đường của Người gắn bó với những năm tháng quan trường ngắn ngủi đầy trắc trở của người cha Nguyễn Sinh Huy. Người đã theo cha đến cả ba miền đất nước, biết được cuộc sống khó khăn của người dân mất nước dù họ ở xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ "bảo hộ" hay Nam Kỳ "thuộc địa". Người có thời gian sống ở Huế. Đó là điều kiện để Người tìm hiểu, làm quen với cuộc sống quan chức, Hoàng triều. Tuy nhiên, thực tế ấy đã làm cho Người thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan chức, tay sai. Từ những trải nghiệm đầu đời của mình và cuộc sống lận đận, trắc trở của người cha, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu chuyện cha mình thường bình giải "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ". Cho nên, đầu năm 1910, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức thì ông vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người, còn Hồ Chí Minh thì thấy rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trường. Điều này càng thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: "Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc"[3].

Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn là công việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân rất bưng bít tư tưởng mới, ngăn trở sách báo tiến bộ với âm mưu giam hãm dân ta trong vòng nô lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế...Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt.Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài[4]...

Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và quyết tâm chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối, hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi.

Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người nhận xét:

"Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương...Điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến"[5].

Từ những trải nghiệm cuộc sống và với quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp - quốc gia đã đề xướng ra lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn mọi con người " Tự do - Bình đẳng - Bác ái", muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở "nước Mẹ" xa xôi ! Người cho rằng "Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Và chính những nhận thức về bối cảnh đất nước và những tìm hiểu của Hồ Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người sang Pháp và các nước khác... Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam.

Quyết định sang phương Tây của Hồ Chí Minh là sự phủ nhận sự tồn tại nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Đó là đòn tiến công đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với nhà nước đương thời, mở cửa ra thế giới để đón nhận những nhân tố mới của thời đại, tiếp thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước Việt Nam thông qua Hành trình cứu nước của một con người - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Người xuống tàu buôn Pháp Amiran Latusơ Tơrêvin( Amiral Latouche Treville) thuộc Hãng Năm sao đang cập cảng Nhà Rồng gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Nhà Rồng mang theo người thanh niên Việt Nam 21 tuổi với khát vọng cháy bỏng là tìm ra con đường cứu nước Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến.

3. Khi rời Tổ Quốc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có quyết tâm cao, nhưng sự hiểu biết về thế giới còn hạn chế. Sự ra đi ấy khẳng định một quyết tâm lớn, nhưng biết bao câu hỏi còn bỏ ngỏ. Vốn hiểu biết của Người chưa có thể nhận thức được đặc điểm, xu thế của thời đại. Từng bước một, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập lý luận và hoạt động xã hội, Hồ Chí Minh dần dần nhìn ra bối cảnh của hành trình tìm đường cứu nước. Từ hoạt động trong nhiều tổ chức chính trị, xã hội, những trải nghiệm cuộc sống trong nhiều quốc gia thập niên 10, 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh sớm nhìn ra những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam như con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tư tưởng Lênin và đường lối giải phóng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Nhiều bài viết, bài nói, báo cáo của Hồ Chí Minh gửi QTCS đã thể hiện quá trình nhận thức của Người về thời cuộc và sự tổng hợp, vận dụng sáng tạo những nhân tố tích cực của bối cảnh lịch sử để hình thành con đường cứu nước của mình.

Điều cần lưu ý ở đây là Hồ Chí Minh rời Tổ quốc hoà nhập vào thế giới trong thời điểm chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Hệ thống thuộc địa đã hình thành trên phạm vi thế giới. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ V của QTCS (1924), Hồ Chí Minh chỉ rõ: Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh[6]... Cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa và phụ thuộc tuy đã được đẩy mạnh ở các nước châu Âu như: Airơlen, Ba Lan nhưng chưa có nước nào giành được độc lập. Còn ở châu Á, tuy đã trỗi dậy một "Châu Á thức tỉnh" nhưng các quốc gia lớn như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia vẫn đang là thuộc địa của bọn đế quốc. Trên phạm vi toàn thế giới, chưa có một thuộc địa nào được giải phóng. Con đường giải phóng dân tộc chưa có một hình mẫu, tấm gương soi chung!

Vì vậy, hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh lúc này cũng mới chỉ là quyết tâm và định hướng. Người bắt đầu bằng nghề phụ bếp rồi sau đó là công nhân trên tàu buôn Pháp. Nhờ đó, Người có dịp qua nhiều quốc gia như: Xinhgapo, Côlômbô, Aicập, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Mỹ. Đầu năm 1913, Người từ Mỹ về Lơ Havơrơ sau đó sang Anh. Tại đây, Người làm nghề đốt lò, quét tuyết, phục vụ khách sạn. Bất kỳ hoàn cảnh nào, Người thường xuyên chú ý tìm hiểu đời sống và gần gũi với người lao động. Người rất xúc động trước điều kiện sống cực khổ và bị đàn áp của người da đen[7]. Sau những tháng năm trải nghiệm cuộc sống người dân thuộc địa làm thuê, Người dần dần nhận ra một điều: Ở đâu cũng có người nghèo và sự giàu nghèo không phụ thuộc vào màu da, chủng tộc. Người lao động ở đâu cũng khổ cực và biết thương yêu nhau.

Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, vừa tiếp tục lao động kiếm sống, vừa tích cực tham gia hoạt động chính trị xã hội. Người liên hệ chặt chẽ với công nhân Pháp, những đại biểu thuộc địa và những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Đây là thời kỳ hoạt động sôi nổi và có hiệu quả trong hành trình tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam. Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp: "Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái" [8]. Giữa năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi "Bản yêu sách tám điểm "của nhân dân An Nam tới Hội nghị các nước đế quốc họp tại Vécxây (Versailles). Mặc dù Yêu sách chỉ nêu những yêu cầu tối thiểu trong khuôn khổ cải cách, nhưng các tác giả của bản Yêu sách ấy đã không nhận được một lời phúc đáp. Từ thực tế ấy, Người kết luận: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"[9]. Thực tế trên đây đã giúp Hồ Chí Minh hiểu thêm bối cảnh khách quan mà hành trình cứu nước không thể bỏ qua. Hành trình đi tìm con đường cứu nước của Hồ Chí Minh vẫn đang tiếp tục.

Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Người là được đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Người ánh sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Khẳng định ý nghĩa to lớn của Luận cương trong hành trình tìm ra con đường cứu nước, sau này Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"[10]. Cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng trung thành bấy nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Sơ thảo Luận cương và đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Điều này thể hiện rất rõ khi Người trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô: "Từ ngày Luận cương của Lênin đã hoàn toàn soi sáng cho tôi, tôi không còn chỉ dự các cuộc họp của Đảng một cách thụ động nữa. Tôi lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ ba"[11].

Sự kiện được đọc bản Sơ thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin cùng với những hoạt động sát cánh với công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó đã tạo tiền đề quan trọng để tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh tích cực thảo luận và sớm quyết định bỏ phiếu ủng hộ Đảng mình gia nhập Quốc tế thứ ba. Người đã tham gia dự thảo Nghị quyết về chủ nghĩa Cộng sản và các thuộc địa Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa tại Đại hội lần thứ nhất (1921) và lần thứ hai (1922) Đảng Cộng sản Pháp. Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên có nhiều đóng góp tích cực cho vấn đề giải phóng thuộc địa.

Với những sự kiện trên đây, Hồ Chí Minh đã từ người yêu nước trở thành người cộng sản chân chính. Và đây còn là mốc quan trọng đánh dấu việc Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước. Người đã hoàn thành sứ mạng Người tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam .

Tiếp theo là những hoạt động của Hồ Chí Minh với sứ mạng Người dẫn đường cứu nước đến thắng lợi.

Tìm thấy đường lối, con đường cứu nước đã khó, tiến hành tuyên truyền vận động quần chúng và tổ chức thắng lợi đường lối ấy trên thực tế còn khó hơn nhiều. Vì trong suốt tiến trình thực tế hoá đường lối ấy, người lãnh đạo có quyết tâm chưa đủ mà còn phải đánh giá đúng tình hình, lựa chọn đúng thời điểm, địa bàn"đối nội" và phải tìm được những cộng sự có thực tế và kinh nghiệm vận động tổ chức quần chúng. Tháng 6-1923, trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp Người phác họa công việc của mình - Người dẫn đường cứu nước khi trở về Tổ quốc là: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"[12].Tuy nhiên con đường ấy còn nhiều gian truân. Người đã trải qua nhiều công việc, hoạt động ở nhiều quốc gia như: Nghiên cứu lý luận tại Đại học Phương Đông, dự nhiều Hội nghị quốc tế tại Liên Xô, làm cán bộ Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và nhiều năm làm phiên dịch trong Phái bộ Bôrôđin tại Trung Quốc (1924-1927). Cũng trong thời gian này, tại Quảng Châu, Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa năm 1927 Người trở lại Liên Xô, thực hiện nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao ở Pháp, Bỉ, Đức, Thuỵ Sĩ, Italia rồi về Xiêm, Thái Lan, Trung Quốc.

Đầu năm 1930 tại Hồng Kông (Trung Quốc), Người đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng tại đây, từ giữa năm 1931 đến năm 1933, Người bị thực dân Anh bắt giam. Đầu năm 1934 sau khi thoát tù, Người trở lại Liên Xô học Trường Quốc tế Lênin và làm nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (thuộc Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản). Thành công nổi bật trong hoạt động cách mạng của Người là nhận thức và giải quyết thoả đáng mối quan hệ dân tộc và giai cấp - vấn đề quan trọng và nhạy cảm mà ngay Quốc tế Cộng sản cũng có lúc mắc sai lầm. Người rất chú ý đặc điểm và truyền thống dân tộc, nhưng không vì thế mà xa rời lập trường giai cấp. Điều này được thể hiện qua luận điểm: "Vậy là màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"[13]. Những luận điểm sáng tạo về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa còn được thể hiện rõ trong nhiều bài báo , đặc biệt trong tham luận của Người được trình bày tại Đại hội V của QTCS năm 1924. Trong bối cảnh QTCS chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu "tả" khuynh, biệt phái từ sau khi Lênin qua đời (1924), đặc biệt sau Đại hội VI của QTCS (1928), Người vẫn kiên trì học tập lý luận và thường xuyên lập kế hoạch về nước thực thi con đường cứu nước để bắt liên lạc với Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở trong nước.

Nét đặc sắc nhất cuộc hành trình cứu nước 30 năm là không bao giờ Người xa rời mục đích về nước cứu đồng bào. Khi ở Liên Xô dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên, Người nói với nhà văn I. Êrenbua: "Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở và Tổ quốc"[14]. Khi đang hoạt động trong Bát lộ quân Trung Quốc, Người vẫn bí mật liên lạc với Ban lãnh đạo Đảng trong nước chuẩn bị xây dựng căn cứ địa vùng biên giới Việt Trung. Cuối tháng 6 năm 1940, ngay sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, Người chỉ thị gấp cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi học Trường Quân chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Diên An nữa mà cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đi Quế Lâm, Nam Ninh (Quảng Tây) hướng về Cao Bằng đón thời cơ mới. Đầu năm 1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh kết thúc Hành trình cứu nước, về vùng rừng núi Cao Bằng - địa đầu Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo dân tộc thực hành đường lối cứu nước mới, mở ra giai đoạn mới trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam.

4. Ra đi tìm đường cứu một quốc gia là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nhưng tìm thấy con đường ấy và điều quan trọng tiếp theo là bổ sung, hoàn thiện nó cho phù hợp với điều kiện cụ thể rồi đưa về áp dụng trong nước là việc khó gấp bội phần. Sau nhiều lần thất bại của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên kết hợp thành công sức mạnh trong nước và quốc tế - dân tộc và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra lời giải cho "Bài toán thế kỷ" đã đặt ra trước dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Người đã khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm của nhiều thế hệ đã tìm thấy con đường cứu Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến. Tuy nhiên cần thấy rõ, đây không phải đơn giản là việc lựa chọn một mô hình con đường có sẵn để vận dụng vào Việt Nam. Mặc dù Luận cương của Lênin cũng như những quan điểm của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp có vị trí quan trọng trong "con đường cứu nước" mà Hồ Chí Minh tìm đến; song chỉ ngần ấy thôi, chưa phải là con đường cứu nước Hồ Chí Minh, bởi lẽ đó chỉ là những nguyên tắc lý luận, định hướng mang tính phổ biến. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, quan điểm ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam không chỉ được tạo ra bởi tác động mạnh mẽ của bối cảnh lịch sử mà còn bởi những đóng góp đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh. Thắng lợi công cuộc giải phóng ở Việt Nam đã mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi thế giới. Đó tác động trở lại của cách mạng Việt Nam với thế giới, dấu ấn của Hồ Chí Minh với thời đại. Do đó, thế giới đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất Việt Nam./.



[1]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996,T1,tr.314

[2].Dẫn theo báo Nhân Dân, ngày 18 tháng 5 năm 1965

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.CTQG-Nxb.TN,H.1994,tr.12

[4] . Hồ Chí Minh Toàn tập,Nxb. CTQG, H.1995,t.1,tr.477

[5] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện..., Sđd,tr.12

[6] Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG,H.1995,t1,tr.273-289

[7]. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 40-50

[8] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện...Sđd, tr.41-42

[9] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện...Sđd,tr.31

[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t. 10 tr.127

[11] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t12,tr.471

[12] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t.1 tr.192

[13] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd,t.1,tr.266

[14] Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, xuất bản lần thứ 2,Nxb.CTQG, H.2006,t.2,tr.63

Các từ khóa theo tin:

PGS.TS Lê Văn Tích (Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh)