Showing posts with label Development. Show all posts
Showing posts with label Development. Show all posts

Tuesday, October 11, 2011

11/10 Ba trụ cột cho sự phát triển thịnh vượng, bền vững của nước Mỹ. Bài 3: Hệ thống giáo dục gắn với thực tế và khai sáng


10:19-11/10/2011


Nguyễn Cảnh Bình*

Một hệ thống giáo dục thực sự dân chủ và khai sáng mới đào tạo ra các thế hệ công dân tốt và hình thành các thế hệ lãnh đạo tài năng tiếp nối.

Vĩ nhân tiêu biểu và là lãnh tụ đóng góp lớn nhất cho quan điểm này chính là Thomas Jefferson, Tổng thống thứ 3 và tác giả Tuyên ngôn Độc lập. Jefferson cho rằng việc có bản hiến pháp tốt là chưa đủ, việc có các nhà người lãnh đạo giỏi, có tầm nhìn… cũng chưa đủ đảm bảo cho một quốc gia bền vững và thịnh vượng. Bởi khi thế hệ lãnh đạo đó mất đi, nếu không có thế hệ lãnh đạo tài năng mới thì thể chế đó cũng sớm lụi tàn. Vì thế, ông cho rằng cần nhiều thế hệ lãnh đạo tài năng, kế tục, nối tiếp nhau, như một ngôi nhà cần phải được xây dựng bằng nhiều lớp gạch… Và xa hơn, cần một dân tộc được khai sáng, cần những thế hệ công dân có giáo dục...

Monday, October 10, 2011

Ba trụ cột cho sự phát triển thịnh vượng, bền vững của nước Mỹ. Bài 2: Lãnh đạo tài năng, có tầm nhìn


01:45-10/10/2011
Nguyễn Cảnh Bình*

Alexander Hamilton (1757–1804),
Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên của Hoa Kỳ
Họ là những người đã chung tay xây dựng nên một bản hiến pháp tốt nhất và phù hợp nhất với nước Mỹ. Nhưng phát triển một quốc gia thì một bản hiến pháp tốt là chưa đủ. Hiến pháp cần phải được thực thi bởi những cá nhân xuất sắc và với tư tưởng xuất sắc, có tầm nhìn… Những cá nhân ấy hợp thành cả một thế hệ lãnh đạo.
Nhân vật tiêu biểu nhất cho những nhà lãnh đạo này là Alexander Hamilton, được coi là chính trị gia kiệt xuất nhất của Mỹ. Sau này, ông là Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Mỹ, và được coi là “kiến trúc sư” cho nền kinh tế và chính trị Mỹ thời dựng quốc.

Trong giai đoạn lập quốc của nước Mỹ kể từ những xung đột đầu tiên với người Anh đầu những năm 1770 đến khi thiết lập xong nhà nước Liên bang Hoa Kỳ năm 1792, nước Mỹ đã trải qua hai thế hệ lãnh đạo. Thế hệ đầu tiên tiêu biểu là George Washington (1732-1799), là Tổng tư lệnh quân đội Mỹ thời kỳ Cách mạng và những nhân vật kiệt xuất như Benjamin Franklin (1706-1790), chính khách Mỹ, Thống đốc bang Massachusetts, người có hình trên tờ 100 đô la, Patrick Henry Lee (1732 – 1794), người khởi xướng nền độc lập cho các thuộc địa, Chủ tịch đầu tiên của Quốc hội Hợp bang... và George Mason (1725-1792), cha đẻ Tuyên ngôn Nhân quyền của tiểu bang Virginia và Đạo luật Nhân quyền Mỹ năm 1790, John Hancock (1737-1793), Chủ tịch Quốc hội Hợp bang, người đầu tiên ký Tuyên ngôn Độc lập Mỹ… 

Thế hệ đầu tiên này (trừ Benjamin Franklin) sinh ra trong khoảng những năm 1730-1745 với lòng quả cảm và là thế hệ đầu tiên dẫn dắt và lãnh đạo cuộc Cách mạng Mỹ dẫn đến nền độc lập… Nhưng tư duy chính trị của các nhân vật này mới dừng lại ở lòng yêu nước, sự nhiệt thành và mong muốn một xây dựng đất nước thịnh vượng. Thành tựu lớn lao nhất của thế hệ đó là cuộc cách mạng giành độc lập với người Anh mà “sản phẩm tinh hoa kết tinh” nhất chính là bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776… 

Thế hệ chính khách, lãnh đạo thứ hai của Mỹ tiêu biểu là James Madison (1751-1836); Alexander Hamilton (1759-1804); John Marshall (1755-1835), Chánh án Tòa án Tối cao Mỹ, Chánh án vĩ đại nhất đã làm nên sự độc lập của ngành tư pháp Mỹ; James Monroe (1758-1831), Tổng thống thứ 5; Edmund Randolph (1753-1813), Thống đốc Virginia, Ngoại trưởng Mỹ… Thế hệ này sinh ra trong giai đoạn 1750-1760, khi Cách mạng Mỹ nổ ra, họ mới khoảng 20 tuổi nhưng được học hành bài bản hơn. Khi trưởng thành họ bắt đầu chứng kiến và tham gia cuộc Cách mạng Mỹ và đặc biệt là họ nhìn thấy được những yếu kém của nền chính trị Mỹ thời kỳ Hợp bang sau khi giành độc lập. Thành tựu lớn lao nhất của họ là kế tục sứ mạng dẫn dắt quốc gia non trẻ từ tay thế hệ thứ nhất để xây dựng chính quyền Liên bang Hoa Kỳ vững mạnh hơn và “sản phẩm trí tuệ” tiêu biểu tinh hoa nhất của họ chính là bản Hiến pháp Mỹ.

Tôi nhận thấy, mỗi thế hệ chính khách Mỹ đều mang trong mình một sứ mệnh lịch sử và họ hoàn thành tốt sứ mệnh này. Với thế hệ đầu tiên, sứ mạng đó là giành độc lập cho các thuộc địa và thế hệ thứ hai là tạo dựng nền tảng cho một nhà nước Liên bang trên nền độc lập đó. Các thế hệ tiếp theo lại có sứ mệnh xây dựng một nhà nước Mỹ thịnh vượng trên cái nền tảng đó, hoặc xử lý những khủng hoảng của quốc gia, của thế giới mà họ gặp phải.

Quan điểm của Hamilton là để phát triển một quốc gia thì một bản hiến pháp tốt là chưa đủ, nó cần phải được thực thi bởi những cá nhân xuất sắc và với tư tưởng xuất sắc, có tầm nhìn và cả một thế hệ lãnh đạo, một ê kíp lãnh đạo tài năng. 

Trước khi Hội nghị Lập hiến nhóm họp một năm, tại Hội nghị Annapolis năm 1786, Hamilton và Madison thống nhất quan điểm cần có một mô hình chính quyền mới mạnh mẽ và hiệu quả hơn nhưng dường như có sự phân công nhiệm vụ giữa hai chính trị gia trẻ trung này. Madison dành cả một năm tìm hiểu về các mô hình nhà nước cổ xưa và hiện đại để rồi phác thảo một bản hiến pháp phú hợp nhất cho nước Mỹ. Còn Hamilton đã dành thời gian nghiền ngẫm về những gì rồi đây nước Mỹ sẽ phải làm. Ông cho rằng, nước Mỹ cần phải được xây dựng trên một trật tự mới, có một bản hiến pháp mới với một chính quyền mới nhưng Hamilton còn muốn rằng chính quyền mới phải thực thi được những chính sách kinh tế, tài chính, thương mại, và cả ngoại giao, quốc phòng phù hợp. Vì thế, trong khi những chính khách khác mải mê tranh cãi tại Quốc hội, sa đà vào những lợi ích và mưu đồ cá nhân hoặc than vãn với nhau, còn Madison đang mải mê với những ý tưởng về Hiến pháp và mô hình nhà nước Liên bang thì Hamilton trở về New York nghiềm ngẫm và trù liệu những chính sách mới mà nước Mỹ rồi sẽ phải thực thi. Tôi rất lấy làm thú vị khi Hmailton còn đặc biệt khôn ngoan khi dự trù trước rằng có thể Washington làm Tổng thống, có thể mình sẽ thành Bộ trưởng Tài chính… Chính những sự chuẩn bị đó khiến ông vượt trên các chính khách khác đương thời khi chính quyền mới được thiết lập và chương trình hành động của ông đã thắng thế.

Đại biểu Quốc hội Hợp bang khi đó khá yếu kém, sa đà vào các tranh cãi vụn vặt. Hầu hết các chính khách khi đó đều chỉ đại diện cho các lợi ích địa phương, cục bộ. Mải mê theo đuổi lợi ích và chức vụ riêng… mà không thảo luận, suy nghĩ nghiêm túc về tầm nhìn và hướng phát triển của dân tộc. Washington và Hamilton gọi họ là những chính trị gia thiển cận, hẹp hòi, theo chủ nghĩa địa phương. Vai trò họ quá mờ nhạt và không mang lại sự thay đổi. Hầu hết các chính khách khi đó loay hoay giữa lợi ích cá nhân và lợi ích đất nước, chẳng biết đi về đâu…

Do kinh tế khó khăn, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân xuất hiện ở vài nơi trên nước Mỹ, bất ổn trong xã hội xuất hiện, nông dân mất niềm tin vào chính quyền, ngân khố trống rỗng, uy tín của chính quyền cộng hòa giảm sút nghiêm trọng, và hầu như không ai có được một giải pháp nào toàn diện… Tương lai của liên minh 13 tiểu bang bị nghi ngờ đến mức khi đó Hamilton viết thư cho Washington rằng cả nước Mỹ đang sôi lên và chỉ cần một mồi lửa cũng đủ để bùng lên cả đám lửa. Hamilton nghĩ về một tương lai mạnh mẽ hơn, ông muốn và ủng hộ mô hình chính quyền Anh. Vì thế, ông liên kết với James Madison để vận động theo hướng ông tin tưởng.

Trong bức thư gửi Washington ngày 3 tháng Bảy năm 1787, Hamilton viết:

Trong chuyến đi của tôi về New Jersey và từ khi đến đây, tôi đặc biệt lo âu khi nhận thấy tâm trạng của công chúng và càng tin tưởng rằng Hội nghị Lập hiến này là cơ hội sống còn cuối cùng cho chúng ta thiết lập lại sự thịnh vượng của đất nước trên một nền tảng vững chắc hơn. Tôi cũng nói chuyện với những người hiểu biết, không chỉ ở thành phố này mà còn ở nhiều miền trong tiểu bang. Họ đồng ý rằng một cuộc cách mạng kỳ diệu mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn đang ở trong tâm trí tất cả mọi người. Họ nghĩ rằng do nỗi sợ hãi làm chấn động công chúng nên Hội nghị này sẽ không tiến đủ xa. Họ dường như tin rằng một mô hình nhà nước vững mạnh sẽ phù hợp với sự trông chờ của công chúng hơn là bất kỳ mô hình nào khác. Bất chấp việc những viên chức chính quyền đang làm mọi cách có thể để tạo ra những mối ác cảm về Hội nghị này, xu hướng chung hiện nay dường như đi theo hướng ngược lại.

Xin thú thật với Ngài rằng tôi rất lo âu về những chia rẽ bè phái tại Hội nghị khi tôi rời Philadelphia. Tôi sợ rằng chúng ta sẽ bỏ lỡ “cơ hội vàng” cứu vãn nước Mỹ khỏi sự chia rẽ, tình trạng hỗn loạn vô chính phủ và cảnh nghèo đói. Không có một biện pháp hỗn tạp hay yếu ớt nào có thể giải quyết dứt điểm vấn đề này. Cần phải có quyết định sáng suốt và không có gì mang lại sự thành công cho Hội nghị này bằng sự hài lòng của dân chúng.

Trong suốt thời kỳ trước và sau Hội nghị Lập hiến, Hamilton đã nghiền ngẫm rất nhiều sách lược, xây dựng một tầm nhìn, phát triển ê kíp lãnh đạo và hoạch định chiến lược về kinh tế, tài chính. Chính ông là người dựng ra tầm nhìn cả 100 năm cho nước Mỹ với rất nhiều hành động phi thường như lập ngân hàng quốc gia, thống nhất tiền tệ, thuế khóa, thúc đẩy sản xuất trong nước, tìm kiếm liên minh và quan hệ với nước Anh… Sau này, dù không còn tham chính những học thuyết và chính sách của ông vẫn được thực thi. 

Ngay sau khi nhậm chức, Hamilton đã thuyết phục Washington ký hiệp ước thương mại với người Anh chứ không phải với người Pháp, bất chấp việc Pháp là đồng minh và ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Ông cho rằng, để đất nước Mỹ phát triển, cần phải xây dựng mối quan hệ thương mại với cường quốc của thế giới dù cho đó là kẻ thù ngày xưa. Hamilton cũng thiết lập uy tín cho quốc gia, thiết lập Ngân hàng Quốc gia Mỹ, tiền thân của FED sau này, thống nhất các loại tiền của các tiểu bang về liên bang. Ông cũng xây dựng một loạt đạo luật liên quan đến việc đánh thuế và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Hamilton là tiêu biểu cho cả một thế hệ lãnh đạo khai sáng, chân chính… Ông nỗ lực làm tất cả những gì có thể, sáng tạo ra những quan điểm mới và chính sách mới, thậm chí diễn giải hiến pháp để bào chữa và bênh vực cho chính sách mà ông sẽ làm…

Alexander Hamilton 

Alexander Hamilton (1757–1804) là luật sư, chính trị gia, chuyên gia tài chính người Mỹ. Ông là Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên của Hoa Kỳ, người đã thiết lập hệ thống tài chính - ngân hàng, đặt nền móng cho nền kinh tế Mỹ, khi trở thành Bộ trưởng Ngân khố ông mới 32 tuổi. 

Ông đặc biệt quan tâm đến việc củng cố chính quyền trung ương, nên vào năm 1786, đại diện cho tiểu bang New York tại Hội nghị Annapolis. Tại đây, ông cùng Madison thúc giục Quốc hội Hợp bang triệu tập Hội nghị Lập hiến nhằm soạn thảo mô hình chính quyền mới cho liên bang. Năm 1787, Hamilton tham dự Hội nghị Lập hiến tham gia Ủy ban soạn và có đóng góp rất lớn.

Ông là tác giả chính của tác phẩm The Federalist Papers (Người liên bang) viết chung với James Madison. Những tư tưởng lớn lao chứa đựng trong đó đã đưa tác phẩm này sánh ngang với những danh tác chính trị của nhân loại, làm nền tảng, giải thích rõ ràng về ý nghĩa và mục đích của Hiến pháp Hoa Kỳ.

Năm 1789, Washington đã bổ nhiệm Hamilton giữ chức Bộ trưởng Tài chính, bộ quan trọng nhất trong giai đoạn đầu dựng nước. Được coi là kiến trúc sư của nền tài chính, kinh tế, và cả chính trị ngoại giao Mỹ thời kỳ lập quốc, ông đã xây dựng nền tảng cho một nhà nước hùng mạnh. Ông đã thành lập Ngân hàng Đệ nhất Hoa Kỳ, để tài trợ cho các khoản nợ của liên bang; đảm trách các khoản nợ của các tiểu bang và khuyến khích sản xuất, phát triển quan hệ thương mại với nước Anh. Hamilton tham gia sáng lập Ðảng Liên bang, tiền thân của đảng Cộng hòa sau này để đối trọng lại Jefferson, Madison và Ðảng Cộng hòa - Dân chủ.

---

(*) Giám đốc Alpha Books



Saturday, August 6, 2011

05/08 Xây dựng đô thị Cần Thơ ngày càng văn minh, hiện đại


Xây dựng đô thị Cần Thơ ngày càng văn minh, hiện đại
Thứ sáu, 05/08/2011 22 giờ 26 GMT+7
Bài 1: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Cần Thơ chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương từ ngày 2-1-2004 (Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ) và được công nhận là đô thị loại I vào ngày 24-6-2009 (Quyết định số 889/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Để xứng tầm là đô thị loại I, các cấp, các ngành thành phố đã, đang và không ngừng phấn đấu, chung sức xây dựng đô thị Cần Thơ theo hướng văn minh, hiện đại... Đặc biệt, TP Cần Thơ xác định thực hiện Chủ đề năm 2011 là “Trật tự, kỷ cương đô thị”.

Bằng nhiều nỗ lực, thời gian qua, TP Cần Thơ đã tập trung đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị. Nhờ đó, nhiều tuyến đường, khu đô thị... trên địa bàn thành phố đã “khoác lên chiếc áo mới” tinh tươm, đẹp hơn. Tuy nhiên, quá trình phát triển đã và đang phát sinh nhiều bất cập đòi hỏi cần có giải pháp giải quyết một cách căn cơ...
* ĐÔ THỊ KHOÁC ÁO MỚI
Những năm gần đây, thành phố tập trung nguồn lực cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị và tăng cường quản lý xây dựng theo quy hoạch, đảm bảo đô thị phát triển bền vững. Đồng thời, thành phố coi trọng việc phát huy nội lực, khuyến khích và khai thác tốt nguồn lực của nhân dân để đầu tư phát triển nhà ở, xây dựng nhiều công trình công cộng với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Thành phố cũng quan tâm đến việc tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, thủy sản và kết cấu hạ tầng đô thị... Đến nay, đã có nhiều công trình, dự án được đưa vào khai thác, sử dụng góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng đô thị, tạo nên một bộ mặt thành phố ngày càng khang trang.
Thời gian qua, TP Cần Thơ đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hình thành nên các tuyến giao thông, nhà cao tầng… Trong ảnh: Cầu Hưng Lợi hướng qua Khu đô thị Nam Cần Thơ. Ảnh: ANH KHOA. 
Cơ sở hạ tầng đô thị thành phố ngày càng được hiện đại hóa và phát triển theo hướng xanh-sạch-đẹp với nhiều khu dân cư, khu đô thị mới. Như các khu dân cư ở Khu đô thị Nam Cần Thơ, Khu dân cư Ngân Thuận, Khu dân cư 91 B, Khu dân cư Hồng Phát... tạo điểm nhấn cho một thành phố đang trên đà phát triển. Các tuyến đường mới theo hướng xanh-sạch-đẹp như: đường 30 Tháng 4, 3 Tháng 2, Nguyễn Văn Cừ, riêng đường Võ Văn Kiệt đang được thành phố tập trung xây dựng trở thành những tuyến đường đẹp của thành phố... Song song đó, thành phố còn mở rộng, phát triển đô thị ra các quận, huyện ngoại thành với nhiều dự án, quy hoạch xây dựng các khu đô thị vệ tinh đang hình thành.
Anh Phan Hoàng Lĩnh, hiện sống và làm việc ở TP Hồ Chí Minh có dịp về Cần Thơ không khỏi ngỡ ngàng trước sự phát triển, đổi mới của thành phố. Anh nói: “7 năm trước tôi từng ở Cần Thơ, cảm giác của tôi lúc ấy là thành phố này khá buồn tẻ. Nhưng hiện nay, thành phố đã đẹp hơn với nhiều tuyến đường mới, rộng rãi, vỉa hè được lát gạch, trồng cây xanh, nhà cửa và phố xá nhộn nhịp đông vui, có nhiều siêu thị, nơi mua sắm... mang tầm của một thành phố năng động... “. Ông Võ Văn Dũng, ở ấp Nhơn Lộc 2, thị trấn Phong Điền, TP Cần Thơ, tỏ ra tự hào khi nói về nơi mình đang sống: “Thị trấn Phong Điền đã và đang được xây dựng mở rộng, hình thành các trục đường mới, các khu dân cư, thương mại, bệnh viện... gắn với khu trung tâm hành chính mới được xây dựng khá đẹp. Ban đêm, trên nhiều tuyến đường của huyện đã có đèn đường. Đây là điều mà người dân ngoại thành vẫn thường ao ước!”.
* VẪN CÒN NHIỀU BẤT CẬP
Từ nguồn vốn của Trung ương, địa phương và nhân dân đóng góp, TP Cần Thơ đang dần hoàn thiện, nâng cấp kết cấu hạ tầng kỹ thuật... Tuy nhiên, để bộ mặt đô thị khang trang, sạch đẹp hơn vẫn còn những vấn đề thành phố phải đối mặt và cần phải khắc phục trong thời gian tới. Đó là những bức xúc trong trật tự đô thị như: tình trạng quy hoạch “treo” và phát triển không đồng bộ; tình trạng xây dựng không phép, sai phép ở một số khu vực vùng ven trong quá trình đô thị hóa; ý thức của người dân về văn minh đô thị và việc tuân thủ các quy định của pháp luật chưa tốt... Mặt khác, cơ sở hạ tầng đô thị thành phố đã được quan tâm đầu tư nhiều nhưng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng một đô thị hiện đại. Hiện có nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng được đầu tư cách đây nhiều năm đã xuống cấp và lạc hậu so với yêu cầu phát triển. Chính thực tế này đã và đang góp phần tạo nên những bức xúc về ô nhiễm do rác và nước thải chưa được xử lý triệt để, ngập úng do mưa và thủy triều dâng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi; tình trạng kẹt xe do cầu và đường chưa đáp ứng tốt nhu cầu đi lại...
Ngoài ra, mặc dù đã đủ tiêu chuẩn để được công nhận đô thị loại I, nhưng hiện vẫn còn một số tiêu chí TP Cần Thơ chưa đạt và cần được tiếp tục hoàn thiện. Trong đó, đáng chú ý là một số chỉ tiêu về tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, về hạ tầng kỹ thuật như: mật độ đường chính, mật độ đường cống thoát nước, vấn đề thu gom xử lý nước bẩn và rác thải, mật độ dân số... Hiện tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (trong khu vực nội thành) mới đạt khoảng 79,64%. Tỷ lệ rác thải được thu gom mới đạt khoảng 80%, nhưng hiện được chôn lấp, chưa được xử lý bằng công nghệ thích hợp... Mặt khác, thành phố cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng tỷ trọng đô thị hóa thấp; kết cấu hạ tầng chiến lược liên kết vùng chưa được đầu tư; hệ thống hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của đô thị trung tâm vùng; thiếu các dự án trọng điểm có sức lan tỏa thúc đẩy đô thị phát triển; nguy cơ ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng...
* PHẢI CÓ GIẢI PHÁP CĂN CƠ!
Theo các chuyên gia, TP Cần Thơ cần phải khẩn trương và thực hiện động bộ nhiều giải pháp và huy động tốt các nguồn lực xã hội và người dân cùng tham gia mới có thể sớm giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc hiện nay của đô thị. Đối với vấn đề đầu tư phát triển đô thị, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng một phần nhu cầu. Do vậy, thành phố cần phải dựa vào nguyên tắc “lấy đô thị nuôi đô thị” bằng chính sách xã hội hóa dịch vụ đô thị. Cần phải hoàn thiện các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các lĩnh vực như: thu gom xử lý rác thải, nước thải, vận tải... Đối với vấn đề ngập úng, nhiều ý kiến cho rằng, không thể ngập tới đâu, nâng nền nhà và nền lộ tới đó mà phải có giải pháp căn cơ để giải quyết cho hiện tại và cả tương lai. Trước hết, cần khôi phục lại hệ thống kênh rạch và hoàn chỉnh các hồ chứa nước trong đô thị để làm tốt việc điều tiết và thoát nước. Phải quản lý chặt việc xây dựng nhà ở và các công trình xây dựng trái phép trên kênh rạch và ven kênh rạch. Mặt khác, có chính sách lâu dài về việc dành quỹ đất ven kênh rạch để làm đê bao, cống ngăn triều cường phục vụ cho việc chống ngập úng hiện tại và có thể ứng phó với nước dâng do biến đổi khí hậu trong vài thập niên tới.
Ông Mai Như Toàn, Phó Giám đốc Sở Xây dựng TP Cần Thơ, cho rằng: Cùng với việc phát triển, hoàn thiện cơ sở hạ tầng đô thị, vấn đề rất quan trọng mà chúng ta cần phải quan tâm giải quyết đó là “con người” trong đô thị. Được công nhận là đô thị loại I, song hầu như TP Cần Thơ chủ yếu mới đạt được các chỉ tiêu về cơ học. Để trở thành một đô thị văn minh, hiện đại rất cần ở yếu tố con người trong đô thị như: trình độ dân trí, năng lực quản lý đô thị, cách ứng xử trong đô thị... Đòi hỏi này phải được đáp ứng trong thời gian tới để xứng tầm đô thị loại I... Theo ông Lê Thanh Tâm, Phó Chủ tịch UBND quận Cái Răng, việc thực hiện quy hoạch và định hướng trong phát triển đô thị là rất quan trọng vì nó quyết định bộ mặt của đô thị trong tương lai. Thực tế ở quận Cái Răng, thời gian qua, Khu đô thị mới Nam Cần Thơ do thành phố đã có các định hướng phát triển và quy hoạch sử dụng đất nên công tác quản lý xây dựng rất thuận lợi. Các ngành hữu quan dễ dàng phát hiện, xử lý các trường hợp xây dựng không phép, sai phép... Tuy nhiên, hiện còn khoảng 50% diện tích trên địa bàn quận Cái Răng, nhất là ở khu đô thị cũ, chưa có quy hoạch chi tiết sử dụng đất nên rất khó trong công tác quản lý và định hướng xây dựng cho người dân nhằm hướng đến một đô thị văn minh, hiện đại. Chính vì vậy, quận rất mong thành phố sớm có các quy hoạch, riêng những nơi nào đã quy hoạch và có nhà đầu tư thì cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án...
(Còn tiếp)
Bài 2: LẬP LẠI TRẬT TỰ, KỶ CƯƠNG ĐÔ THỊ - CHUYỂN BIẾN MỚI

Tuesday, December 29, 2009

Báo Cáo Phát Triển Việt Nam 2010 by World Bank

Báo Cáo Phát Triển Việt Nam 2010

Country Brief

Overview

Source: World Development Indicators 2007


Vietnam’s poverty reduction and economic growth achievements in the last 15 years are one of the most spectacular success stories in economic development. During this period, the World Bank Group’s relationship with Vietnam has also matured and grown considerably. The Country Partnership Strategy for FY07-FY11 supports the Government’s Socio-Economic Development Plan 2006-2010, which lays out a path of transition towards a market economy with socialist orientation, with the goal of attaining middle income country status by 2010.


Development Progress


Economic and Institutional Development

Vietnam is one of the best performing economies in the world over the last decade. Real GDP has on average grown by 7.3 percent per year during 1995-2005 and per capita income by 6.2 percent per year. The economy has proven resilient to shocks and negative impacts from SARS, avian influenza, poor weather, high commodity prices, inflation, and anti-dumping suits. In US dollar terms, income per capita rose from US$260 in 1995 to a 2007 level of US$835. At this pace Vietnam would enter the ranks of middle income countries by surpassing US$1,000 per capita in 2010.

Vietnam has become increasingly integrated with the world economy and has become a member of the WTO. Exports have been the main drivers for growth, and foreign investments have been buoyant in recent years. Main manufacturing exports are garments, footwear, and wood products, reflecting Vietnam’s comparative advantage of a low-cost but high-quality labor force. While external demand conditions have been generally favorable, the supply response has been made possible by domestic reforms that have dismantled controls on economic activity and strengthened the investment climate. Between 1995 and 2005, the share of agriculture in GDP has declined from 27 percent to 21 percent, while that of industry has risen from 29 percent to 41 percent. In January 2007, Vietnam became the 150th member of the WTO after several years of intensive negotiations.

Recent growth is driven by the rising importance of the private sector. The role of the state sector in manufacturing activity has declined appreciably: from 52 percent in 1995 to under 35 percent in 2006. But this has resulted more from the emergence of a vibrant private sector than from the dismantling of the state sector, which is being restructured and focused on more “strategic” activities. Macroeconomic policies in Vietnam have been generally prudent and key economic balances have been maintained at manageable levels. The Government’s fiscal and monetary stance reflects a determination to not repeat past mistakes that resulted in a short period of hyperinflation in 1992-1996.

Economic transition accompanied by an institutional overhaul. There has been significant progress in public financial management with the implementation of a new State Budget Law in 2004. The entire 2005 budget was disclosed to the public for the first time. The National Assembly is responsible now for the approval of budget, including allocations to lower levels of government. Decentralization is another important trait of the ongoing institutional transition. The planning process, as evidenced by the rafting process of the latest Socio Economic Development Plan, has also become considerably participatory.

A New Socio-Economic Development Plan for 2006-2010 was approved by the National Assembly in June 2006. The SEDP aims at rapid development, carefully balanced between its four pillars of economic, social, environmental development, and improved governance and institutions. The main challenges for the SEDP implementation are to address entrenched poverty among ethnic minorities, improve the quality and efficiency of public investments and development strong systems and institutions for transparent and efficient public sector management.

Medium Term Economic Outlook and Debt Sustainability

Growth performance was solid in 2007. Economic growth accelerated slightly, to 8.5 percent, making 2007 the third consecutive year above the 8-percent benchmark. Some of the potentially adverse shocks that were feared from WTO accession, especially in relation to agriculture and retail trade, did not materialize. The business climate continued to improve: business sentiment surveys consistently show an upbeat mood among enterprises, with a large majority of them foreseeing an expansion in 2008. The investment rate attained 40.4 percent of GDP in 2007. Growth was increasingly driven by the private sector, with 59,000 new enterprises registering during the year, an increase of 26 percent with respect to the previous year. Foreign Direct Investment (FDI) commitments almost doubled, to $20.3 billion, whereas stock market capitalization reached 43 percent of GDP by end 2007, compared to 1.5 percent two years earlier.

Some deceleration of economic growth can be expected in the short term, but medium-term prospects remain strong. High inflation and a large current account deficit have affected the investment sentiment, resulting in a slowdown of short-term capital inflows. The stabilization package adopted by the government in March 2008 has also resulted in a decline in stock prices and a much cooled down real estate market. As part of the package the government decided to reduce its growth target for 2008 to 7 percent. However, due to statistical inertia the growth rate for the entire year can be expected to be higher than the target. Over the medium-term, the magnitude of the investments being implemented suggests that economic growth will continue at a sustained pace.

Selected Economic Indicators:
Source: General Statistics Office (GSO) and State Bank of Vietnam (SBV) for 2006 and 2007; World Bank forecasts (base case scenario) for 2008 and 2009.

The fiscal stance of the government remains prudent. The official deficit was lower than budgeted in 2007, and stood at around 1 percent of GDP. The overall fiscal balance including off-budget investment expenditure was around 6 percent of GDP, similar to that of previous years. Off-budget investments include the issuance of government bonds for education, infrastructure and the re-capitalization of state-owned commercial banks (SOCBs). However, they are off-budget only in name. The choice of these investments reflects the priorities spelled out in the SEDP, and issuance of such bonds is subject to approval by the National Assembly. The stabilization program being implemented by the government includes a reduction of recurrent expenditures by 10 percent and a discontinuation of public investment projects which are not essential or lack appropriate funding.

Poverty Profile

The level of public debt, at 42 percent of GDP, is moderate and is considered to be sustainable. The indebtedness is similar to other ASEAN countries. The baseline scenario of the most recent Debt Sustainability Analysis (DSA) by the World Bank and the International Monetary Fund (IMF) is broadly in line with the investment and growth outlook of the SEDP. It estimates public and publicly-guaranteed debt to increase from 44 percent of the GDP in 2007 to around 51 percent by 2016, and decline slightly thereafter. This increase, though significant, is still considered within manageable limits, especially since more than half of it will remain on highly concessional terms. The concessional component of Vietnam’s debt, embodied in long repayment periods and low interest rates, is reflected in the gap between the nominal level of public debt and its net present value (about 35 percent of GDP). External debt, both public and private, is projected to decline somewhat: from a little over 30 percent of GDP to just under 26 percent in 2017. The ratio of external debt service payments to exports is estimated to remain about 4 percent during 2007 to 2017. Vietnam should thus remain at low risk of external debt distress.

A remarkable success in reducing poverty: New household data indicate that the general poverty rate fell from 58.1 percent in 1993 to 16% in 2006. The standard metrics tracking inequality suggest that the high growth and rapid poverty reduction were accompanied by only very modest increases in inequality. The Gini coefficient, for example rose from 0.34 to 0.37 between 1993 and 2004 and declined to 0.36 in 2006. This favorable trend of shared growth is considered attributed to an egalitarian redistribution of land, the liberalization of agricultural markets, and booming low-skill labor. The data also indicate that poverty reduction accelerated in the past two years.



Challenges Remain in Tackling both Persistent Pockets of Poverty and Poverty among Ethnic Minorities. These impressive achievements in reducing poverty and the absence of striking increases in inequality sit alongside slower progress for an important sub-group of the population: ethnic minorities. In 2006, 10.2 percent of the Kinh and Chinese people were living in poverty, compared to 52.2 percent of ethnic minority people. Though accounting for only 13.5 percent of the total population, ethnic minorities now constitute 44.4 percent of the poor. The poverty gap for ethnic minorities is 15.4 percent, compared to only 2 percent for Kinh people. (Poverty gaps reflect the average distance between the expenditures of the poor and the poverty line, in percentage of the latter.)






Development Outcomes

Vietnam has outperformed many other countries in terms of progress towards achieving the Millennium Development Goals (MDGs). Five of the ten main MDG targets set for 2015 have already been attained, and another three could be reached ahead of time. However, Vietnam might only partially achieve the target on reversing the loss of environmental resources and could miss the target on halving the share of the population without drinking water and sanitation. Also, it should be noted that alongside a remarkable performance on nearly all of the MDGs, important disparities in achievement remain between the Kinh majority and ethnic minority groups. For example, fewer ethnic minority children are enrolled in school, especially girls. Maternal mortality and child mortality rates are much higher in mountainous areas where many ethnic minorities live than in the rest of Vietnam.

Progress Towards The Millennium Development Goals:


Source: United Nations Development Program, GSO and World Bank


Challenges Ahead

For Vietnam to achieve middle income status by 2010, it is imperative that the foundations of a modern market economy are established. Key challenges include:

1. Completing the structural reform agenda, including the implementation of WTO commitments and the banking reform roadmap

2. Establishing an efficient regulatory framework for infrastructure while expanding the capacity to fill the supply gap in energy, transport and water;

3. Setting up social security systems that would provide for health care financing, pensions for retirees and support for temporary unemployed; and improving the quality of education throughout the system;

4. Protecting the environment and better managing natural resources;

5. Establishing a public administration based on principles of efficiency, accountability and transparency, and

6. Implementing the Anti-Corruption Law and regulations effectively.