From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
Sent: Sunday, October 23, 2011 1:26 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Sài Gòn Ngon Lắm, Sài Gòn Ơi!
Subject: [Exryu-ww-Forum] Sài Gòn Ngon Lắm, Sài Gòn Ơi!
http://hoanghaithuy.wordpress.com/2008/05/13/saigonngonlamsaigonoi/
Sài Gòn Ngon Lắm, Sài Gòn Ơi!
Posted on May 13, 2008 by hoanghaithuy
Bánh Mì Sài Gòn…! Nhất thế gian Ngon Ở đâu trên Trái Đất Tròn Có Bánh Mì Thơm, Vàng Ròn Ngon như Bánh Mì Sài Gòn? | Hình ảnh Bánh Mì thân thương trên những vỉa hè Sài Gòn xưa |
Ông, bà có thể hỏi:
- Đặt tít ký gì kỳ dzậy? Sài Gòn Ngon là ký gì? Ký gì của Sài Gòn Ngon?
Thưa: Ký gì của Sài Gòn cũng ngon ráo trọi. Người Sài Gòn Ngon, Đồ Sài Gòn Ngon. Nhưng Sài Gòn Ngon đây là Sài Gòn trước 1975. Sài Gòn trước 1975 mới Ngon. Nếu hỏi 4 triệu ông bà người Việt sống ở hải ngoại thương ca, không chỉ người Việt ở Kỳ Hoa Đất Trích, mà người Việt ở Paris Đất Mẹ Đất Cha Tây Ngày Xưa, người Việt ở London Sông Thames Bốn Mùa Sương Trắng, người Việt ở Sydney có Tòa Nhà Sò Hến, người Việt ở Melbourn, Thành Phố Meo-bần mà người rất sang, rất hào hoa, phong thấp – xin lỗi, hào hoa, phong nhã – ông bà sẽ nghe câu trả lời:
Bánh Mì Sài Gòn nổi tiếng ngon từ những năm 1950. Thời gian qua, càng ngày Bánh Mì Sài Gòn càng ngon. Các ông Tây Thực Dzân mang đến cho người Việt Nam – thời xa xưa ấy là người A-na-mít – nhiều thứ thực phẩm như Bơ, Phô-mai, Bắc Kỳ xưa là Phó-mát, Cà-phe, Sữa Đặc Có Đường, Bích-qui, Sô-cô-la, Kem, Cà-rem, Bia – La-Ve, La-dze – Sà-phòng, Sà-bông và Bánh Mì. Trong số thực phẩm Tây nhập, Bánh Mì đựơc dân An-nam tiếp nhận nhanh nhất, hoan nghênh nhất. Người dân Việt nghèo không có điều kiện, mà nhiều người có điều kiện, tức có tiền, cũng không thích ăn Bơ, sô-cô-la, uống cà-phe, nhưng người dân Việt giầu, nghèo đều rất thích ăn bánh mì.
Thời gian 60, 70 năm xưa, những năm 1940 Thế kỷ 19, ở xứ Bắc kỳ, Bánh Mì được gọi là Bánh Tây. Thời ấy rất nhiều thứ của các quan Đại Pháp được người dân Bắc Kỳ – Tonkinois: Tông-ki-noa – gắn theo nhãn hiệu "Tây", như Bánh Tây, Áo Tây, Giầy Tây, Thuốc Tây, Rượu Tây, Cơm Tây, Nhà Tây, Chó Tây, đến loại chuối bự trái, như chuối xứ trong Nam Kỳ, cũng được gọi là Chuối Tây. Và Bánh Mì được dân Bắc kỳ, trong số có kẻ viết bài này, gọi là Bánh Tây.
Bài Viết ở Rừng Phong hôm nay có ba chuyện:
- Bánh Mì Sài Gòn Xưa và Nay.
- Thi sĩ Lê Minh Ngọc, Chủ Tiệm Bánh Mì-Cà phe Hòa Mã.
- Thi bá Vũ Hoàng Chương.
Mời quí vị đọc bài viết về Bánh Mì 2008 ở Sài Gòn.
Người viết Hàm Anh, cư ngụ tại Sài Gòn:
Như bánh cuốn, phở, xôi, bún, bánh mì là thức ăn không thể thiếu của nhân dân Sài Gòn, bánh mì là thứ người ta có thể ăn mọi lúc, ở mọi chỗ, có thể dễ mang theo. Bánh mì có mặt suốt ngày, từ sáng tinh sương đến đêm khuya và dễ dàng tìm thấy ở bất cứ đầu đường, góc phố nào của Sài Gòn. Đêm khuya khi những tiệm ăn đã đóng cửa, không còn hủ tíu, phở, chè, cháo thì xe bánh mì với ngọn đèn leo lét vẫn một mình thức trên vỉa hè đón đợi những người khách cần ăn khuya.Việt Nam không trồng lúa mì, nhưng dân Việt lại thích ăn bánh mì nên Việt Nam phải nhập cảng bột mì để làm bánh mì và mì sợi. Thông thường, xíu mại, giò lụa, cá mòi, chà bông… xe bánh mì có thể có hay không có cũng được nhưng để làm nên một xe bánh mì lề đường chân chính, đúng sách vở, xe thường không thiếu món thịt ba chỉ buộc dây bó khoanh nhuộm màu đỏ cam. Cùng với một ít mayonnaise, ma-dzi, pâté, đồ chua, dưa leo, cà chua, hành hoa, ớt, tạo nên ổ bánh mì Sài Gòn đặc trưng không giống với bánh mì kẹp thịt những nơi khác.Bánh mì có thể kẹp với nhiều nhân khác nhau. Một thứ nhân rẻ tiền là bì, như bì ăn với cơm tấm, thứ này không đi với nước tương hay muối tiêu mà phải rưới nước mắm ớt mới đúng điệu. Một ổ bánh mì thịt bình dân, năm 2008, giá 3 hay 4.000 đồng thì bánh mì bì chỉ 2 hay 3.000 đồng, ổ bánh mì không giá 2.000 một ổ. Có những xe bánh mì thịt nướng thường đậu trước cửa trường học hoặc đẩy rong ngoài đường ở những khu dân cư đông dân cư. Thịt bò xay nhỏ xiên que nướng bốc khói thơm phức nhét vào bánh mì với đồ chua, rưới tương đen pha ngòn ngọt, nếu không sợ nguồn gốc thịt chưa kiểm dịch thì ổ bánh mì nướng rong này cũng khá lạ miệng.Cách đây vài năm, bánh mì thịt nướng kiểu Thổ Nhĩ Kỳ xuất hiện trong khu ẩm thực ở những hội chợ. Món này vốn là thịt cừu nhưng sang VN, để hợp với khẩu vị người Việt nên dùng thịt heo, bò hay gà ướp các thứ gia vị lạ, nướng chín trên trục lò xoay tròn, nhét vào ổ bánh mì dòn thơm nóng hổi, thêm ít bắp cải, cà chua, hành tây… cùng với mù-tạt, mayonnaise. Mặc dù ăn khá ngon nhưng không hiểu sao món bánh mì thịt nướng Thổ Nhĩ Kỳ rất thịnh hành ở miền Bắc, vào đến Sài Gòn, ngoài tiệm Như Lan không còn thấy nơi nào bán. Mặc dù luôn thích ứng với các món ăn mới lạ phương xa, thể hiện qua vô số quán ăn Pháp, Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Nga mọc ra khắp nơi, người Sài Gòn vẫn thích ăn bánh mì thịt heo quay quen thuộc từ trước tới giờ hơn bánh mì thịt nướng Thổ Nhĩ Kỳ. Trước kia bánh mì hay bánh hỏi thịt heo quay được coi là trịnh trọng, thường dùng đãi khách hay trong đám giỗ, đám tiệc. Cách đây mấy năm, xe bánh mì thịt quay ở chân cầu Mỹ Thuận được đưa lên báo Tuổi Trẻ khiến chủ nhân là cô Vân Mập trở nên nổi tiếng, du khách khi đi ngang khu này thường ghé mua bánh mì cô Vân. Thế là từ xe bánh mì nhỏ bán vội vàng cho khách qua cầu, sau một thời gian ngắn đã phát đạt thành cửa hàng ăn uống rộng lớn, bán thêm nhiều thứ như kiểu Restaurant mini.Một số xe chỉ chuyên bán bánh mì thịt quay nằm trên đường Trần Đình Xu (Phát Diệm), Nguyễn thị Minh Khai (Hồng Thập Tự)… Tùy mỗi xe, thịt được thái theo kiểu khác nhau, hoặc thành miếng to, hoặc nhỏ như cây tăm nhưng vẫn đủ ba lớp bì, mỡ và thịt, kẹp thêm dưa leo và chế nước tương.Nay nhiều xe bánh mì có bếp ga mini để có thể chiên trứng ốp-la tại chỗ. Tại những cửa trường học, do bị đuổi dữ quá nên hàng bánh mì không là chiếc xe đẩy nữa mà bánh mì nằm gọn trong mấy cái giỏ xách dã chiến để khi bị cảnh sát đưổi, bà hàng có thể xách giỏ chạy. Trứng ốp-la, xúc xích, phô mai, bơ Tường An là những mặt hàng quen thuộc của những bà bánh mì giỏ này. Vì sẵn bếp ga nên bà bánh mì giỏ còn có thể bán thêm cơm chiên. Nồi cơm nấu chín sẵn trộn màu vàng vàng, các món dùng để kẹp với bánh mì: trứng, bì, cá hộp Ba Cô Gái cũng dùng cho cơm, học sinh thích ăn cơm chiên, bà xúc cơm, trứng, thịt cho vào chảo dầu chiên chiên, xào xào xong ngay trong chớp mắt. Các món no bụng nóng sốt này, giờ tan học bán không hở tay cho học sinh các trường trung học chưa đủ lớn vào quán xá, vì sau giờ tan học chính quy ở trường, học sinh thường phải ăn vài miếng trước khi chạy qua một lớp học thêm khác, để học đến tận chín, mười giờ tối mới về nhà. Nay Sài Gòn có những tiệm bánh mì với những cô bán hàng trẻ trung ăn bận theo kiểu Teen như tiệm Chop Chop ở đường Cống Quỳnh. Tiệm này khuyến mãi bằng chiêu mua một ổ bánh mì không 2.000 đồng được tặng thêm một ổ. Chop Chop bán ổ bánh mì thịt với giá từ 10.000 tới 15.000 đồng.Nhiều xe bánh mì ngon trở thành thương hiệu nhiều người biết như bánh mì Lệ, bánh mì đường Bùi thị Xuân, bánh mì góc Lý Tự Trọng-Thủ Khoa Huân…, bánh mì Anh Phán, Hà Nội, Như Lan. Những tiệm bánh mì vừa kể từ chiếc xe vỉa hè thủa nào mới ra nghề tiến lên thành những tủ kính bề thế nằm ở mặt tiền đường phố, người bán hàng mặc đồng phục. Nói đến những tiệm bánh mì lâu năm của Sài Gòn không thể không nói đến tiệm bánh mì Nguyên Sinh trên đường Trần Đình Xu, cửa tiệm xưa, cũ nhưng sạch và sáng, với hai bàn gỗ kê phía trong, tiệm không ồn ào dù đang lúc đông khách, đa số khách là khách quen, sành ăn đến thưởng thức bánh mì với giò chả làm đúng hương vị Bắc kỳ.Một tiệm bánh mì khác rất đặc biệt của Sài Gòn là tiệm Bánh Mì Hòa Mã trên đường Cao Thắng. Thịt nguội ở đây không lấy mối mà do tự tay gia đình chế biến theo bí kíp gia truyền. Chủ nhân Hòa Mã từ Hà Nội di cư vào Nam năm 1954. Từ 1954, quán được khai trương ở đường Cao Thắng, Sài Gòn và mở cửa, có khách đều đến ngày hôm nay. Bánh Mì Hòa Mã có những ông khách quen đến tiệm từ những năm 1960, dài dài đến 1975 khách bỏ Sài Gòn ra đi, 10, 20 năm sau khách quay về thăm Sài Gòn, khách trở lại tiệm Hòa Mã và khách cảm khái khi thấy tiệm y hệt như năm xưa khi khách bỏ Sài Gòn ra đi. Vẫn sàn nhà mòn đen, mấy cái bàn gỗ cũ, mấy cái ghế sắt tróc sơn. Ngoài bánh mì thịt nguội hương vị độc đáo, cái đặc biệt nhất của Bánh Mì Hòa Mã chính là chủ nhân. Ông chủ tiệm Hòa Mã là Nhà Thơ Lê Minh Ngọc, trước kia từng đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật, bộ môn Thơ. Ông nổi bật trong bộ đồ gấm may kiểu Tàu thường là màu sáng: vàng, cam, hồng…. Mỗi sáng ông ngồi thanh thản đọc báo, ăn điểm tâm trong tiệm nhà. Bạn văn nghệ ghé qua tiệm luôn được ông mời thưởng thức món bánh mì thịt nguội cực ngon với ly cà phê nóng, kèm theo những câu chuyện văn nghệ trải dài từ Bắc vào Nam. Nhà thơ Lê Minh Ngọc nay đã ngoài 90 tuổi xuân.Những tiệm bánh mì đặc biệt Sài Gòn như tiệm Hòa Mã nay chỉ còn sót lại dăm ba tiệm. Bánh mì từ giã chỗ bán ngoài lề đường đầy khói xe, bụi bặm, dần dần đi vào những cửa tiệm lịch sự, tân tiến. Nay Sài Gòn có những tiệm bánh mì riêng biệt, đàng hoàng như tiệm phở, tiệm cơm tấm, bánh mì không còn phải đóng vai đào phụ bán theo các món ăn khác hay lang thang góc chợ, vỉa hè, gốc cây. Nay ở Sài Gòn những tiệm bánh mì mọc ra như nấm. Một số tiệm chỉ bán duy nhất bánh mì bít-tết bếp lửa hừng hực suốt ngày trên những đường Võ Văn Tần, Đinh Tiên Hoàng, Cao Thắng…. Khách đến nườm nượp. Cửa hàng bánh mì tươi, ở góc đừng Trần Quý Cáp và Mạc Đĩnh Chi, với lò nướng bánh kê ngay ở mặt tiền cửa hàng, chốc chốc cho ra lò những khay bánh mì ròn nóng hổi. Lại có một lô tiệm bánh mì như những tiệm chuyên bán loại "Thức ăn nhanh Âu Mỹ" – Fastfood – như: Tiệm bánh mì Ta (Lê Thánh Tôn), King Baguettaria (Trần Hưng Đạo), Bamizon (Nguyễn văn Chiêm)…. Những tiệm mới mở này bán bánh mì thịt nguội, trứng, cá hộp… kèm cà phê, nước trái cây, nước ngọt…. Hệ thống Bánh Mì B4 hay Queen Bee gồm nhiều cửa tiệm ở khắp các quận đô thành. Ngoài ra còn phải kể đến những cái tên Bami Deli, Bistro, Love Bread, Bon.Hầu hết những tiệm bánh mì trong thành phố đều có máy lạnh, trang trí tân kỳ, phục vụ chuyên nghiệp, không những chỉ là nơi thưởng thức món bánh mì Sài Gòn ròn, thơm, đúng điệu, ngon lành mà còn là nơi ăn uống sạch, đẹp, văn minh, lịch sự, thích hợp với những cuộc gặp, hẹn, bàn chuyện làm ăn, chuyện tâm tình hay tán gẫu.Nguyễn thị Hàm Anh
Theo tôi, Bánh Mì Sài Gòn Ngon Nhất Thế Giới. Bài viết của Nguyễn Thị Hàm Anh làm tôi cảm khái vì trong bài nhắc đến một ông bạn văn nghệ của tôi: Thi sĩ Lê Minh Ngọc. Anh là tác giả Tập Thơ Hoa Thề, được Giải Thưởng Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa tôi không nhớ vào năm nào. Dường như là một năm trước năm 1963. Lê Minh Ngọc là cư dân làng Hòa Mã, một làng ở bên thành phố Hà Nội, như làng Giáp Bát. Nghe nói thành phố Hà Nội lúc đầu được dựng trên đất làng Hòa Mã, sau phát triển làm mất luôn làng Hòa Mã.
Bánh Mì Hòa Mã Sài Gòn nằm trên đường Cao Thắng, gần Ngã Tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng, đầu ngõ Kỳ Viên Tự, nhìn sang bên kia đường Phan Đình Phùng là Tam Tông Miếu. Tiệm không bán bia, nước ngọt, chỉ có bánh mì và cà-phe. Thực khách chẳng bao giờ quá đông mà cũng chẳng lúc nào quá vắng. Gần ngay tiệm Bánh Mì Hòa Mã là tiệm Bánh Mì Ba Lẹ, đường Phan Đình Phùng. Bánh mì Ba Lẹ nổi tiếng một thời, chỉ bán ổ bánh nhồi thịt, đem đi, không có bàn cho khách ngồi ăn tại tiệm. Sau 1975, Chủ nhân Ba Lẹ sang Mỹ, Bánh Mì Ba Lẹ không còn ở Sài Gòn.
Bánh Mì Hòa Mã là một Sài Gòn Vang Bóng, một hình ảnh của Sài Gòn từ những năm 1960, chủ nhân Hòa Mã Lê Minh Ngọc là một chủ nhân kỳ cựu của giới bán Điểm Tâm của Sài Gòn, năm nay, năm 2008, anh phải, ít nhất, là 86, 87 tuổi. Tôi nhớ những năm 1976, 1977, gặp lại Lê Minh Ngọc, nghe anh nói:
- Cứ ngồi không mà ăn. Sợ thật. Các cụ nói "miệng ăn, núi lở" – Tọa hưởng, sơn băng. Đúng thật.
Sau 1975, toàn thể 3 triệu cư dân Sài Gòn ăn ngày 3 bữa nhưng không ai kiếm ra được một đồng bạc, dù là một đồng tiền Hồ Thổ Tả, nhưng chủ nhân Hòa Mã vẫn mở tiệm bánh mì, vẫn kiếm được tiền. Dù là thời Quốc Gia No Đủ, dù là thời Cộng Sản Đói Rách, người ta vẫn cứ phải ăn. Chỉ có điều thời Quốc Gia người Sài Gòn ăn no, ăn ngon, mặc đẹp, thời Cộng sản người Sài Gòn ăn đói, mặc rách.
Lê Minh Ngọc nói về Thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
- Mình có hai câu tặng ông ấy:
Ta đợi Em từ hai mươi năm
Để Em quất mẹ chỗ ta nằm.
Thơ Vũ Hoàng Chương:
Ta đợi Em từ ba mươi năm,
Uổng hoa phong nhụy, hoài trăng rằm.
Lê Minh Ngọc về thăm Hà Nội ngay từ những năm 1977, 1978, trở vào, anh bảo tôi:
- Anh phải về Hà Nội. Anh phải về xem bọn Hà Nội chúng nó sống như thế nào, về để thấy những con vợ nó khinh thằng chồng, những thằng con hỗn láo với bố, thấy những thằng đàn ông hèn. Anh phải về để thấy chúng nó sống dối trá ra sao, để thấy chúng nó mới là ngụy, mình không phải là ngụy.
Chắc tôi không có ngày gặp lại Thi sĩ Lê Minh Ngọc ở Sài Gòn. Xin ông bạn nào trong nước đọc được bài viết này, in ra, mang đến tiệm Bánh Mì Hòa Mã đường Cao Thắng, đưa cho Thi sĩ Lê Minh Ngọc, để Thi sĩ thấy tôi ở bên trời này vẫn nhớ ông, tôi viết về ông. Ông bạn làm dzùm, tôi cám ơn.
Nhớ Bánh Mì Sài Gòn, tôi làm bài Thơ:
Bánh Mì Sài GònAi bảo Bánh Mì Paris ngon?
Chắc gì hơn Bánh Mì Sài Gòn!
Bánh Mì Sài Gòn Năm-bơ Uon.
Nóng, thơm, bùi, béo lại vàng ròn!
Không giống như Cơm cần cá, thịt,
Càng không giống Phở nước lòn tòn.
Bánh Mì ăn không cũng Ngon.
Ta đi trăm núi, ngàn sông, biển,
Không đâu bánh mì ngon
Bằng Bánh Mì Sài Gòn!
Quan Tây truyền dậy bao nhiêu mánh.
Bánh Mì là mánh Việt nằm lòn!
.
.
.
Viết ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân,
Kỳ Hoa Đất Trích. Tháng Năm 2008.
Kỳ Hoa Đất Trích. Tháng Năm 2008.
Be the first to like this post.
Filed under: Viết Ở Rừng Phong
11 Responses
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Sunday, 23 October 2011 10:45 AM
Subject: [Exryu-ww-Forum] SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA
http://tieulam.com/forum/viewtopic.php?f=10&t=24133
SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA
(Tác giả : Trần Ngọc Quang, JJR 59)
Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội.... luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Tân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.
Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-
1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời giang để cạo mủ cao su !
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần
70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị "tây hóa"
nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông "Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đốc Victor Charner năm
1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng đường sản- phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm
1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm
1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm
1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm
1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa
Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó, để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa".
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắng "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Dejean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau
1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn
Hoả.
Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup-Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi
1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson de Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân việt nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cạp có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
0o0
Tên đường Sài Gòn, rối như canh hẹ
Sài Gòn Cô Nương/Người Việt
"Hà Nội băm sáu phố phường
Hàng Gạo, Hàng Ðường, Hàng Muối trắng tinh"
Chỉ nghe tên biết được ngay phố ấy bán thứ gì. Thật ra phố Hà Nội phải có đến gấp đôi con số đó, ba mươi sáu là chỉ một phần.
Ðà Lạt phô bày đặc điểm của mình bằng cách lấy tên loài hoa như đường Mimosa, đường Mai Anh Ðào... nhưng chỉ có thế là hết. Thật tiếc khi không có đường Tú Cầu, Ðỗ Quyên hay Phượng Tím, Trà Mi...
Ở những xứ lịch sử ngắn, không đủ danh nhân đặt tên đường thì cứ đặt số. Ðường song song được đánh số chẵn hay lẻ tùy hướng ngang hay dọc như bàn cờ xem ra lại đơn giản và tiện lợi. Cứ đọc con số đường có thể ước được ngay vị trí của nó nằm ở khoảng nào.
Nhưng Việt Nam thì khác. Bốn ngàn năm lịch sử tạo nên số danh nhân đủ để đặt tên đường. Các vua quan, tướng tài, văn nhân, các trận chiến lớn... tỏa rộng phủ khắp thành phố.
Sài Gòn trước kia chỉ có tám quận gọi chung Sài Gòn-Chợ Lớn, chung quanh là tỉnh Gia Ðịnh. Vì thế có đường Lê Lợi-Sài Gòn hay Lê Lợi-Gia Ðịnh, Phan Chu Trinh-Sài Gòn hay Phan Chu Trịnh-Gia Ðịnh, Bùi Thị Xuân-Sài Gòn hay Bùi Thị Xuân-Gia Ðịnh...
Bây giờ thì vô số đường mới mở, lắm nơi chỉ là con hẻm thông được đổ bê-tông, gắn tấm bảng là biến thành đường. Ðường nhiều quá, tên đường trở nên thiếu phải đặt trùng nhau. Rất nhiều địa chỉ đường phải chú rõ, không phải thuộc tỉnh nào mà là thuộc quận nào. Như Phạm Ngũ Lão-quận 1 hay Phạm Ngũ Lão-Gò Vấp, Cao Thắng-quận 3 hay Phú Nhuận... Cô Giang, Cô Bắc, Huỳnh Thúc Kháng... ở trung tâm thành phố là những con đường rộng rãi nhưng khi ra quận, huyện khác, đó chỉ là những con đường mới mở nhỏ hẹp: Lê Lai nằm ở quận Một, Tân Bình và Gò Vấp còn Phan Chu Trinh, Chu Văn An, Lê Lợi... có mặt vừa quận Một, vừa Phú Nhuận vừa Tân Phú... Cho nên đi tìm nhà mà không nói rõ con đường đó nằm ở quận nào thì không thể mò ra được.
Chưa kể nhiều con đường dài cả mấy cây số, đi qua nhiều quận nên cũng rắc rối đôi chút. Cùng một đường, nhưng quận 1 là Trần Hưng Ðạo, thuộc quận 5 là Ðồng Khánh, sau 1975 đổi thành Trần Hưng Ðạo A và Trần Hưng Ðạo B và cuối cùng là Trần Hưng Ðạo-quận 1, Trần Hưng Ðạo-quận 5; Hồng Bàng ở quận 5 và quận 6; Nguyễn Tri Phương thuộc quận 5 và quận 10...
Một con đường chạy lượn theo sông nhưng thay đổi tên tùy đoạn, đi ngang rạch Bến Nghé có tên Bến Chương Dương, đến kinh Tàu Hủ là Bến Hàm Tử, qua kinh Bến Nghé thành Trần Văn Kiểu. Ðối diện với bờ bên kia là Bến Vân Ðồn, Hưng Phú và Bến Bình Ðông...
Tên đường đặt theo từng cụm danh nhân như khu vực Cầu Ông Lãnh có nhóm "Khởi nghĩa Yên Bái": Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc, Phó Ðức Chính, Ký Con, Nguyễn Khắc Nhu...
Nhóm "đời nhà Trần" ở khu Tân Ðịnh gồm Trần Nhật Duật, Trần Khát Chân, Trần Quang Khải, Trần Quí Khoách...
Trận đánh thì có Hàm Tử, Chi Lăng, Chương Dương, Bạch Ðằng, Vân Ðồn, Nhật Tảo...
Nhóm nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Ðặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Tú Xương... ở liền kề nhau nơi những con đường biệt thự yên tĩnh, rợp mát bóng cây, cách xa ồn ào thế sự để xướng họa thi ca mây nước.
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh song song hai mặt cửa Ðông và cửa Tây chợ Bến Thành, một bên bàn chuyện Ðông du, một bên cải cách theo Tây. Chí hướng hai cụ tuy gần mà xa, xa mà gần, tuy giống mà khác, khác mà giống là vậy.
Tên các danh nhân ngoại quốc như Pasteur, Yersin, Calmette...
Tên đường theo khu vực như đường Bàn Cờ, Chánh Hưng, Xóm Củi, Phú Thọ, Phổ Quang, Hạnh Thông Tây... Hương lộ 80B có nghĩa đường làng được lên cấp thành đường Nguyễn Ánh Thủ.
Các cư xá đặt tên đường nội bộ riêng. Cư xá Tân Sơn Nhất có đường Lam Sơn, Yên Thế, Trà Khúc... Khu dân cư Miếu Nổi đầy những hoa: đường Hoa Cau, Hoa Phượng, Hoa Sứ... mặc dù hoa nhưng nghe vẫn thấy "nôm na" làm sao!
Hay nhất là cư xá Bắc Hải. Con đường xương sống rộng nhất chạy dài chính giữa là Trường Sơn. Dọc Trường Sơn là Bạch Mã, Ba Vì, Châu Thới... Ngang Trường Sơn là Hồng Hà, Hương Giang, Cửu Long... Tên đường đặt vang lên vừa hào hùng đất nước lại vừa quê hương tự tình.
Hiện nay thành phố đã nới rộng ra hai mươi bốn quận huyện, một số quận mới thành lập như 2, 7, 9, 12, nhiều khu dân cư mới được xây dựng, mạnh nơi nào nơi ấy đặt tên. Bên cạnh Ðô Ðốc Lộc, Lê Sát... là Ðộc Lập, Bác Ái, Tự Do... Trần Hưng Ðạo, Châu Vĩnh Tế, Tây Sơn đều chen chúc ngang nhau.
Các vị vừa qua bị choán chỗ cũng ráng tìm nơi nào đó dung thân: Trần Quý Cáp đến Bình Thạnh. Thành Thái, Duy Tân cũng thế. Không biết khi nào đến phiên Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Võ Tánh... bởi vì trong thực tế Lăng Ông vẫn là một di tích lịch sử, nơi thờ cúng linh thiêng của dân chúng thành phố và trường Trung học Ba Tri (Bến Tre) đã đổi tên thành trường Phan Thanh Giản, sắp tới tỉnh cũng sẽ cho dựng tượng cụ Phan. Viện Sử Học đã kết luận: "Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau." Vì vậy chắc các vị này thế nào cũng sẽ trở lại tên đường.
Ðặt đường bằng tên không đủ nên nhiều nơi phải dùng con số kèm theo tên khu dân cư. Ví dụ đường số 2 khu Lý Chiêu Hoàng, đường số 15 khu Bình Phú, đường D1 khu Văn Thánh Bắc... Ðã có đường Lê Thánh Tôn ở quận 1 lại thêm Lê Thánh Tông ở quận Tân Phú, đường Huyền Trân Công Chúa ở quận 1 và đường quận 1... Những con đường mới mở này thường được quy hoạch bằng nhau, các danh nhân ngồi cạnh bình đẳng chứ không phân chia công trạng để ngự trên các con đường dài ngắn, rộng hẹp khác nhau như trong nội thành. Quận Bảy mặc dù một số đường có đặt tên: Lưu Trọng Lư, Trần Văn Khánh... nhưng xem chừng đường ngang ngõ dọc không hết nên đặt theo số: đường Số 3, Số 8... cho đến đường Số 22, Số 37, 53...
Ðó là các khu mới mở, đường sá vẽ trước từ trên dự án nên rất ngay ngắn, đánh số rất dễ kiếm. Nhưng hiện nay dân số thành phố đã lên tới tám triệu, nhiều khu dân cư bình dân tự phát mọc lên như nấm khắp nơi. Trong khi đợi nhà nước đặt tên thì họ tự đặt tên đường với nhau. Như đường Hẻm Sinco, đường Bên Hông Trường Mầm Non, đường Kế Xí Nghiệp Ðông Lạnh, đường Bờ Sông, đường Sông Suối...
Nhà nước cũng chịu không nổi, đổi tên mới đàng hoàng nhưng vẫn còn sót đường Nhà Kho Pepsi, đường Giao Thông Hào Ấp 3, đường Bờ Tuyến... Tên những con đường này dĩ nhiên không nằm trên bản đồ thành phố, đi đến tận khu vực lần hỏi thăm dân địa phương may ra mới tìm thấy.
Ông Cao Lỗ xây thành ốc cho vua An Dương Vương yên vị bên quận Tám qua cầu chữ Y tới ngay, trong khi bà Bát Nàn vẫn lăm le vác đơn đi kiện. Tại sao cùng nữ tướng dưới trướng Trưng Vương mà bà Lê Chân đường hoàng có tên đường và cả tên trường học mà Bát Nàn đại tướng quân không được đoái hoài tới. Trình Minh Thế là một nhân vật lịch sử quá gần nên mất tên là đương nhiên.
Sau năm 1975, đường mang tên các vị vua nhà Nguyễn bị dẹp bỏ hết trừ vua Hàm Nghi, Gia Long thành Lý Tự Trọng, Khải Ðịnh thành Nguyễn Thị Tần, Ðồng Khánh thành Trần Hưng Ðạo B. Ngoài ra còn Tự Ðức thành Nguyễn Văn Thủ, Minh Mạng thành Ngô Gia Tự. Riêng vua Thành Thái không hiểu sao lại nhường chỗ cho An Dương Vương, nhà vua lui về ở nép dưới đuôi Nguyễn Tri Phương nối dài. Duy Tân bị Pháp bắt và đày lên đảo Réunion ở Ấn Ðộ Dương thành Phạm Ngọc Thạch, ngoài việc là một nhà vua yêu nước thì con đường cây dài bóng mát đó đã "Trả Lại Em Yêu," mất đi mỹ hiệu con đường tình nhân của một thời.
Yên Ðổ mất tích ở quận 1, dành chỗ cho Lý Chính Thắng, sau này mới thấy cụ lấp ló hiện ra ở một con đường nhỏ xíu mới mở bên Tân Phú, cùng số phận như vậy là Phan Ðình Phùng. Ðường Cộng Hòa chạy từ chợ Nancy (Trần Hưng Ðạo) tới bùng binh Cộng Hòa biến thành Nguyễn Văn Cừ trong khi bùng binh vẫn giữ tên công trường Cộng Hòa và đường Cộng Hòa ở quận Tân Bình thì vẫn chạy dài miên man. Trần Quốc Toản chỉ là một cậu bé chưa nhiều công trạng! Chiếm một đại lộ vừa rộng vừa dài thật phí nên rút lui cho Ba Tháng Hai, chạy qua chiếm chỗ Nguyễn Ðình Chiểu. Cũng như cụ Yên Ðổ, cụ Ðồ Chiểu vốn văn nhân, lại hỏng mắt làm sao đấu tay đôi với tiểu tướng họ Trần nên lẳng lặng chuyển qua quận 3 và Phú Nhuận.
Nguyễn Văn Thoại công lao đào kênh Vĩnh Tế ở An Giang bị Lý Thường Kiệt thay thế, ông đành rời bỏ nội ô để ra trấn giữ một con đường dài từ quận Tân Phú sang Bình Tân...
Hằng trăm con đường mới được thành lập, các vị danh nhân thi nhau đổi chỗ và đặt chỗ mới. Cho nên việc đặt tên đường còn rắc rối dài dài
0o0
(Tác giả : Trần Ngọc Quang, JJR 59)
Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội.... luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Tân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.
Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-
1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời giang để cạo mủ cao su !
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần
70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị "tây hóa"
nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông "Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đốc Victor Charner năm
1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng đường sản- phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm
1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm
1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm
1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm
1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa
Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó, để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa".
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắng "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Dejean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau
1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn
Hoả.
Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup-Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi
1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson de Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân việt nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cạp có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
0o0
Tên đường Sài Gòn, rối như canh hẹ
Sài Gòn Cô Nương/Người Việt
"Hà Nội băm sáu phố phường
Hàng Gạo, Hàng Ðường, Hàng Muối trắng tinh"
Chỉ nghe tên biết được ngay phố ấy bán thứ gì. Thật ra phố Hà Nội phải có đến gấp đôi con số đó, ba mươi sáu là chỉ một phần.
Ðà Lạt phô bày đặc điểm của mình bằng cách lấy tên loài hoa như đường Mimosa, đường Mai Anh Ðào... nhưng chỉ có thế là hết. Thật tiếc khi không có đường Tú Cầu, Ðỗ Quyên hay Phượng Tím, Trà Mi...
Ở những xứ lịch sử ngắn, không đủ danh nhân đặt tên đường thì cứ đặt số. Ðường song song được đánh số chẵn hay lẻ tùy hướng ngang hay dọc như bàn cờ xem ra lại đơn giản và tiện lợi. Cứ đọc con số đường có thể ước được ngay vị trí của nó nằm ở khoảng nào.
Nhưng Việt Nam thì khác. Bốn ngàn năm lịch sử tạo nên số danh nhân đủ để đặt tên đường. Các vua quan, tướng tài, văn nhân, các trận chiến lớn... tỏa rộng phủ khắp thành phố.
Sài Gòn trước kia chỉ có tám quận gọi chung Sài Gòn-Chợ Lớn, chung quanh là tỉnh Gia Ðịnh. Vì thế có đường Lê Lợi-Sài Gòn hay Lê Lợi-Gia Ðịnh, Phan Chu Trinh-Sài Gòn hay Phan Chu Trịnh-Gia Ðịnh, Bùi Thị Xuân-Sài Gòn hay Bùi Thị Xuân-Gia Ðịnh...
Bây giờ thì vô số đường mới mở, lắm nơi chỉ là con hẻm thông được đổ bê-tông, gắn tấm bảng là biến thành đường. Ðường nhiều quá, tên đường trở nên thiếu phải đặt trùng nhau. Rất nhiều địa chỉ đường phải chú rõ, không phải thuộc tỉnh nào mà là thuộc quận nào. Như Phạm Ngũ Lão-quận 1 hay Phạm Ngũ Lão-Gò Vấp, Cao Thắng-quận 3 hay Phú Nhuận... Cô Giang, Cô Bắc, Huỳnh Thúc Kháng... ở trung tâm thành phố là những con đường rộng rãi nhưng khi ra quận, huyện khác, đó chỉ là những con đường mới mở nhỏ hẹp: Lê Lai nằm ở quận Một, Tân Bình và Gò Vấp còn Phan Chu Trinh, Chu Văn An, Lê Lợi... có mặt vừa quận Một, vừa Phú Nhuận vừa Tân Phú... Cho nên đi tìm nhà mà không nói rõ con đường đó nằm ở quận nào thì không thể mò ra được.
Chưa kể nhiều con đường dài cả mấy cây số, đi qua nhiều quận nên cũng rắc rối đôi chút. Cùng một đường, nhưng quận 1 là Trần Hưng Ðạo, thuộc quận 5 là Ðồng Khánh, sau 1975 đổi thành Trần Hưng Ðạo A và Trần Hưng Ðạo B và cuối cùng là Trần Hưng Ðạo-quận 1, Trần Hưng Ðạo-quận 5; Hồng Bàng ở quận 5 và quận 6; Nguyễn Tri Phương thuộc quận 5 và quận 10...
Một con đường chạy lượn theo sông nhưng thay đổi tên tùy đoạn, đi ngang rạch Bến Nghé có tên Bến Chương Dương, đến kinh Tàu Hủ là Bến Hàm Tử, qua kinh Bến Nghé thành Trần Văn Kiểu. Ðối diện với bờ bên kia là Bến Vân Ðồn, Hưng Phú và Bến Bình Ðông...
Tên đường đặt theo từng cụm danh nhân như khu vực Cầu Ông Lãnh có nhóm "Khởi nghĩa Yên Bái": Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc, Phó Ðức Chính, Ký Con, Nguyễn Khắc Nhu...
Nhóm "đời nhà Trần" ở khu Tân Ðịnh gồm Trần Nhật Duật, Trần Khát Chân, Trần Quang Khải, Trần Quí Khoách...
Trận đánh thì có Hàm Tử, Chi Lăng, Chương Dương, Bạch Ðằng, Vân Ðồn, Nhật Tảo...
Nhóm nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Ðặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Tú Xương... ở liền kề nhau nơi những con đường biệt thự yên tĩnh, rợp mát bóng cây, cách xa ồn ào thế sự để xướng họa thi ca mây nước.
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh song song hai mặt cửa Ðông và cửa Tây chợ Bến Thành, một bên bàn chuyện Ðông du, một bên cải cách theo Tây. Chí hướng hai cụ tuy gần mà xa, xa mà gần, tuy giống mà khác, khác mà giống là vậy.
Tên các danh nhân ngoại quốc như Pasteur, Yersin, Calmette...
Tên đường theo khu vực như đường Bàn Cờ, Chánh Hưng, Xóm Củi, Phú Thọ, Phổ Quang, Hạnh Thông Tây... Hương lộ 80B có nghĩa đường làng được lên cấp thành đường Nguyễn Ánh Thủ.
Các cư xá đặt tên đường nội bộ riêng. Cư xá Tân Sơn Nhất có đường Lam Sơn, Yên Thế, Trà Khúc... Khu dân cư Miếu Nổi đầy những hoa: đường Hoa Cau, Hoa Phượng, Hoa Sứ... mặc dù hoa nhưng nghe vẫn thấy "nôm na" làm sao!
Hay nhất là cư xá Bắc Hải. Con đường xương sống rộng nhất chạy dài chính giữa là Trường Sơn. Dọc Trường Sơn là Bạch Mã, Ba Vì, Châu Thới... Ngang Trường Sơn là Hồng Hà, Hương Giang, Cửu Long... Tên đường đặt vang lên vừa hào hùng đất nước lại vừa quê hương tự tình.
Hiện nay thành phố đã nới rộng ra hai mươi bốn quận huyện, một số quận mới thành lập như 2, 7, 9, 12, nhiều khu dân cư mới được xây dựng, mạnh nơi nào nơi ấy đặt tên. Bên cạnh Ðô Ðốc Lộc, Lê Sát... là Ðộc Lập, Bác Ái, Tự Do... Trần Hưng Ðạo, Châu Vĩnh Tế, Tây Sơn đều chen chúc ngang nhau.
Các vị vừa qua bị choán chỗ cũng ráng tìm nơi nào đó dung thân: Trần Quý Cáp đến Bình Thạnh. Thành Thái, Duy Tân cũng thế. Không biết khi nào đến phiên Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Võ Tánh... bởi vì trong thực tế Lăng Ông vẫn là một di tích lịch sử, nơi thờ cúng linh thiêng của dân chúng thành phố và trường Trung học Ba Tri (Bến Tre) đã đổi tên thành trường Phan Thanh Giản, sắp tới tỉnh cũng sẽ cho dựng tượng cụ Phan. Viện Sử Học đã kết luận: "Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau." Vì vậy chắc các vị này thế nào cũng sẽ trở lại tên đường.
Ðặt đường bằng tên không đủ nên nhiều nơi phải dùng con số kèm theo tên khu dân cư. Ví dụ đường số 2 khu Lý Chiêu Hoàng, đường số 15 khu Bình Phú, đường D1 khu Văn Thánh Bắc... Ðã có đường Lê Thánh Tôn ở quận 1 lại thêm Lê Thánh Tông ở quận Tân Phú, đường Huyền Trân Công Chúa ở quận 1 và đường quận 1... Những con đường mới mở này thường được quy hoạch bằng nhau, các danh nhân ngồi cạnh bình đẳng chứ không phân chia công trạng để ngự trên các con đường dài ngắn, rộng hẹp khác nhau như trong nội thành. Quận Bảy mặc dù một số đường có đặt tên: Lưu Trọng Lư, Trần Văn Khánh... nhưng xem chừng đường ngang ngõ dọc không hết nên đặt theo số: đường Số 3, Số 8... cho đến đường Số 22, Số 37, 53...
Ðó là các khu mới mở, đường sá vẽ trước từ trên dự án nên rất ngay ngắn, đánh số rất dễ kiếm. Nhưng hiện nay dân số thành phố đã lên tới tám triệu, nhiều khu dân cư bình dân tự phát mọc lên như nấm khắp nơi. Trong khi đợi nhà nước đặt tên thì họ tự đặt tên đường với nhau. Như đường Hẻm Sinco, đường Bên Hông Trường Mầm Non, đường Kế Xí Nghiệp Ðông Lạnh, đường Bờ Sông, đường Sông Suối...
Nhà nước cũng chịu không nổi, đổi tên mới đàng hoàng nhưng vẫn còn sót đường Nhà Kho Pepsi, đường Giao Thông Hào Ấp 3, đường Bờ Tuyến... Tên những con đường này dĩ nhiên không nằm trên bản đồ thành phố, đi đến tận khu vực lần hỏi thăm dân địa phương may ra mới tìm thấy.
Ông Cao Lỗ xây thành ốc cho vua An Dương Vương yên vị bên quận Tám qua cầu chữ Y tới ngay, trong khi bà Bát Nàn vẫn lăm le vác đơn đi kiện. Tại sao cùng nữ tướng dưới trướng Trưng Vương mà bà Lê Chân đường hoàng có tên đường và cả tên trường học mà Bát Nàn đại tướng quân không được đoái hoài tới. Trình Minh Thế là một nhân vật lịch sử quá gần nên mất tên là đương nhiên.
Sau năm 1975, đường mang tên các vị vua nhà Nguyễn bị dẹp bỏ hết trừ vua Hàm Nghi, Gia Long thành Lý Tự Trọng, Khải Ðịnh thành Nguyễn Thị Tần, Ðồng Khánh thành Trần Hưng Ðạo B. Ngoài ra còn Tự Ðức thành Nguyễn Văn Thủ, Minh Mạng thành Ngô Gia Tự. Riêng vua Thành Thái không hiểu sao lại nhường chỗ cho An Dương Vương, nhà vua lui về ở nép dưới đuôi Nguyễn Tri Phương nối dài. Duy Tân bị Pháp bắt và đày lên đảo Réunion ở Ấn Ðộ Dương thành Phạm Ngọc Thạch, ngoài việc là một nhà vua yêu nước thì con đường cây dài bóng mát đó đã "Trả Lại Em Yêu," mất đi mỹ hiệu con đường tình nhân của một thời.
Yên Ðổ mất tích ở quận 1, dành chỗ cho Lý Chính Thắng, sau này mới thấy cụ lấp ló hiện ra ở một con đường nhỏ xíu mới mở bên Tân Phú, cùng số phận như vậy là Phan Ðình Phùng. Ðường Cộng Hòa chạy từ chợ Nancy (Trần Hưng Ðạo) tới bùng binh Cộng Hòa biến thành Nguyễn Văn Cừ trong khi bùng binh vẫn giữ tên công trường Cộng Hòa và đường Cộng Hòa ở quận Tân Bình thì vẫn chạy dài miên man. Trần Quốc Toản chỉ là một cậu bé chưa nhiều công trạng! Chiếm một đại lộ vừa rộng vừa dài thật phí nên rút lui cho Ba Tháng Hai, chạy qua chiếm chỗ Nguyễn Ðình Chiểu. Cũng như cụ Yên Ðổ, cụ Ðồ Chiểu vốn văn nhân, lại hỏng mắt làm sao đấu tay đôi với tiểu tướng họ Trần nên lẳng lặng chuyển qua quận 3 và Phú Nhuận.
Nguyễn Văn Thoại công lao đào kênh Vĩnh Tế ở An Giang bị Lý Thường Kiệt thay thế, ông đành rời bỏ nội ô để ra trấn giữ một con đường dài từ quận Tân Phú sang Bình Tân...
Hằng trăm con đường mới được thành lập, các vị danh nhân thi nhau đổi chỗ và đặt chỗ mới. Cho nên việc đặt tên đường còn rắc rối dài dài
0o0
__._,_.___
MARKETPLACE
.
__,_._,___
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Cau chuc chu luon manh khoe o xu TINH NHAN KY HOA DAT TRICH !!!
Bánh mì Hoà Mã nằm trên đường Cao Thắng, ở đầu một con hẻm nối đường Cao Thắng và Bàn Cờ, nghĩa là con hẻm này chạy song song với đường Phan đình Phùng (tên bây giờ là Nguyễn đình Chiểu). Nếu ta từ Cao Thắng đi vào con hẻm này, gặp Bàn Cờ quẹo tay trái, đi tiếp đụng Phan đình Phùng thì gặp Kỳ Viên Tự ngay góc PĐP/BC.
Kể về tuổi tác, HHT đại huynh đáng tuổi chú tôi, nhưng tôi thích gọi là đại huynh. Vả lại có lần nghe HHT đại huynh nói là ký giả Tô Văn hơn đại huynh mười mấy tuổi mà đại huynh vẫn mày tao vì kg Tô Văn không câu nệ tuổi tác. Riêng tôi thì vẫn thích "xin đừng gọi anh bằng chú" kể cả nữ lẫn nam, để cho mình có cảm giác còn trẻ.
Cám ơn huynh PS Nghị đã cho nghe bánh mì Tám Lự, cũng là một cái tên nổi tiếng trong làng bánh mì Saigon.
Rat mung duoc doc lai bai cua anh.Biet anh tu nhung nam cuoi 60′s (qua doc).Toi co nhieu film cua Nhat va Dai-han muon 'share' voi anh, xin anh E-mail cho toi .
Kinh
D. Tran
Philadelphia