Friday, November 14, 2008

Nghị định số 116/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Nghị định số 116/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 11 năm 2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
-----------------------------------------------
Điều 1. Vị trí và chức năng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch, đầu tư phát triển và thống kê, bao gồm: tham mưu tổng hợp về chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; quy hoạch phát triển, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ thể; đầu tư trong nước, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; khu kinh tế (bao gồm cả khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghệ cao và các loại hình khu kinh tế khác); quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây gọi tắt ODA) và viện trợ phi chính phủ nước ngoài; đấu thầu; thành lập, phát triển doanh nghiệp và khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã; thống kê; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.

Friday, September 19, 2008

18/09 'TQ xuyên tạc cử chỉ hữu nghị'



 
Ký tên tham gia biểu tình
Các cuộc biểu tình phản đối TQ về lãnh thổ cuối 2007 và đầu 2008 đã thu hút thanh niên tham gia
Một nhà ngoại giao kỳ cựu của Việt Nam phản đối việc Trung Quốc dùng công hàm cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc cách đây nửa thế kỷ để nói về chủ quyền.
Chủ nhật vừa qua là đúng 50 năm ngày Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai ủng hộ quyết định lãnh hải của Trung Quốc.
Bản công hàm gửi ngày 14/9/1958 nay bị cho là 'văn bản thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc', nhất là đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Đã có nhiều kêu gọi phản đối và hủy bỏ văn bản gây tranh cãi này.
Nội dung công hàm ngắn do ông Phạm Văn Đồng ký, nói "Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc".
Tuyên bố 4/9/1958 khẳng định hải phận 12 hải lý, trong có Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Đài BBC đã có cuộc phỏng vấn nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi, cựu trưởng Ban Biên giới của Chính phủ Việt Nam (1978-1989) về bản công hàm này.

Ông Lưu Văn Lợi: Bản công hàm này rất đơn giản. Lúc đó ông Chu Ân Lai ra tuyên bố rằng lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý, ông Phạm Văn Đồng gửi thư cho ông Chu Ân Lai nói đại ý VN ghi nhận và chỉ thị cho các cơ quan tôn trọng hải phận đó. Chỉ có thế thôi.
Trong tuyên bố 12 hải lý của Chu Ân Lai có bao gồm cả bốn quần đảo TQ gọi là của mình, nhưng ông Phạm Văn Đồng không nói gì tới lãnh thổ hay quần đảo, mà chỉ nói tôn trọng quyết định của TQ.
BBC: Vâng nhưng nay TQ sử dụng công hàm đó như một minh chứng là VN đã công nhận chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa...
Ông Lưu Văn Lợi: Đó là họ xuyên tạc. Nội dung công hàm của ông Phạm Văn Đồng chỉ có ba câu thôi, có nói gì đến lãnh thổ hay quần đảo nào đâu.
BBC: Nếu nay có kêu gọi hủy bản công hàm này thì có thể thực hiện được về luật pháp không, thưa ông?
Ông Lưu Văn Lợi: Tôi chưa hiểu chính phủ quyết định ra sao, nhưng theo nội dung công hàm mà tôi hiểu thì không nói đến lãnh thổ hay quần đảo.
BBC: Thưa ông, tại sao ông Phạm Văn Đồng lại quyết định gửi công hàm vào thời điểm đó?
Ông Lưu Văn Lợi: Đây là một điều đáng buồn. Lúc bấy giờ đang xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan.
Biểu tình phản đối TQ
VN vẫn tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa

Đài Loan lúc đó còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ TQ là Kim Môn và Mã Tổ. Hải quân Mỹ đến vùng eo biển Đài Loan, khiến TQ lo sợ rằng Mỹ có thể tấn công xâm phạm chủ quyền của TQ. Và đó là lý do ông Chu Ân Lai ra tuyên bố về hải phận.
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một cử chỉ tốt đẹp về tình hữu nghị, ủng hộ TQ trong lúc Mỹ đưa hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan mà thôi.
BBC: Gần đây có chỉ trích là chính phủ VN đã nhượng bộ quá nhiều trong đàm phán lãnh thổ với TQ. Là người chịu trách nhiệm về lĩnh vực này trong thời gian dài, ông nghĩ sao ạ?
Ông Lưu Văn Lợi: Hoàn toàn không có chuyện đó. Các đàm phán đều thực hiện trên phương pháp quy định hai bên đã thỏa thuận, thống nhất từ trước. Không có chuyện nhân nhượng TQ.
BBC: Thưa Chủ nhật vừa rồi là đúng 50 năm ngày ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho TQ. Cảm xúc của ông nhân ngày này ra sao?
Ông Lưu Văn Lợi: Tất nhiên chúng tôi phản đối việc sử dụng công hàm này (với mục đích tranh chủ quyền các quần đảo). Đó là một sự xuyên tạc, biến một cử chỉ hữu nghị của ông Phạm Văn Đồng thành tuyên bố chủ quyền của TQ đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Đây là chuyện của chính phủ, chúng tôi thì đã về hưu lâu rồi. Nhưng nhất định đây là một điều không hay.
Ông Lưu Văn Lợi, sinh năm 1913, là nhà báo, cựu Chánh văn phòng-Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989). Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bài viết về chủ đề biên giới. Các bài liên quan, kể cả ý kiến của giới nghiên cứu Trung Quốc có ở bên phải trang.


Trung Lập
Tôi nghĩ chính phủ hiện nay cũng đau xót trước việc mất đất, mất đảo lắm nhưng thế nước còn yếu đành phải dùng biện pháp ngoại giao mà thôi, chứ đao to bùa lớn liệu sẽ làm được gì. Hoặc kêu gọi Mỹ giúp đỡ ai dám chắc hay hơn hay lại cõng rắn cắn gà nhà (lịch sử nước nhà đã chứng minh bao lần rồi, chẳng ai tốt hoặc cho không mình cái gì đâu).
Do Thanh Cong, HN
Tính chất của văn kiện rất đơn giản, mang tính hữu nghị thân ái của ông PVD, nhưng bài học rút ra cho người Việt Nam là: Thứ nhất, bài học đầu tiên của Việt Nam là bài học dựng nước và giữ nước. Trong đó câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy là bài học muôn đời. Đối với Trung Quốc, dù là tình cảm hữu nghị hay tình yêu lứa đôi, dù là mưu đồ hay là "chân thật nhất thời" thì đến cuối cùng nhà cầm quyền TQ đều sử dụng cho mưu đồ bành trướng.
Thứ hai, vị trí của Việt Nam nằm ở vị trí yếu hầu của trong thế tiến xuống phía nam của TQ. Theo lý thuyết về không gian 03 chiều: không thể cạnh tranh với Mỹ về kinh tế, không thể cạnh tranh với Nga về quân sự, con đường của TQ là bành trướng về phía Nam (các nước nhỏ, nhiều tài nguyên biển và dầu mỏ, vị trí đường biển và đầu mối giao thông chiến lược 2 đại dương lớn). Vấn đề này chỉ là vấn đề thời gian, và với tiềm năng quân sự và hải quân ngày càng được hiện đại hóa, vấn đề này càng đến gần cho "quyết định của TQ".
Tu Viet My
Trong cuốn sách Southeast Asia: an introductory history của Dr Milton Osborne người Úc, ông nói rằng VN chỉ là nước trong vùng ĐNÁ ảnh hưởng nặng nề văn hóa (kể cả chính trị) của TQ vì qua thu nhận hơn là tự sáng tạo (“as a mere receiver of ideas, unable to offer traditions of its own”) mặc dù ngôn ngữ VN là yếu tố đoàn kết của dân tộc.
CP trong quá khứ cũng như hiện tại chỉ bắt chước cái mà họ nghĩ là hay của người khác rồi làm theo thì VN sẽ thành một tiểu bang của TQ trong thế kỷ này.
DT
Tôi xin bổ sung thông tin vì ông bạn Pinochio có hỏi tôi. Tôi khẳng định từng câu chữ của Pinochio là chính xác khi ông nói rằng :"...Hải quân VNCH đã có một trận hải chiến để bảo vệ chủ quyền...". Vâng, chỉ có một trận đó là duy nhất. Đó chính là trận hải chiến năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa.
Sự kiện này xảy ra sau khi Mao Trạch Đông và Nixon bắt tay nhau vào năm 1972. Đây có thể xem là "sự bán đứng đồng minh" của người Mỹ! Hạm đội 7 của Mỹ lúc đó đã làm ngơ để Trung Quốc thôn tính quần đảo Hoàng Sa của miền Nam! Lúc Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa) vào năm 1956 thì chẳng có trận hải chiến nào của Hải quân VNCH cả!
Pinochio
Tôi không biết DT lấy thông tin từ đâu? Có được thẩm định hay không? Nhưng tôi biết chắc một điều là Hải Quân của VNCH đã có một trận hải chiến để bảo vệ chủ quyền của những quần đảo trên, cho nên nói họ không biết bảo vệ chủ quyền (im lặng) là không chính xác.
Ngang tang TQ
Không phải TQ ngu không hiểu, nhưng rõ ràng là ỷ mạnh muốn làm gì thì làm. Xét về vị trí địa lý, thì Hoàng Sa và Trường Sa là gần VN nhất, mà không thuộc VN mà lại thuộc của TQ hay của các nước cũng có tranh chấp. Vậy Mỹ cũng có thể nói Hoàng Sa và Trường Sa là của Mỹ và đem Chiến Hạm tới đóng chắc không ai dám cản đường.
Cũng may ông Mỹ hiểu lý lẽ không như ông TQ đang muốn trở thành tướng cướp kia. Một ý kiến khác nữa là, khi 1 người lỡ để bị thương thì phải biết giữ vết thương cho khỏi hôi thối bằng không thì côn trùng thừa cơ hội tấn công--Hay đại loại là 'Thừa nước đục thả câu!'
Canh Tân NY
Nếu công hàm PVD công nhận HS và TS là của TQ thì tại sao họ ko lấy lại ngay năm 1958 mà chờ đến 1974 lúc Mỹ đã bỏ rơi Nam VN, rồi đến 1988 chiếm TS khi VN trở nên yếu kém và thân với Liên Sô. Vấn đề là thời điểm, lúc VN bất ổn, yếu thế là lúc chiếm thêm đất, đảo VN. Dễ hiểu mà, nếu VN giàu mạnh, có vũ khí hiện đại, TQ ko đến nỗi làm càng như vậy.
Nam Saigon
Trung Quốc trong lịch sử từ xưa đến nay luôn là kẻ xâm lược nước ta, không thể không đề phòng hết sức cẩn thận. Ngay cả bây giờ, lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam người VN phải có trách nhiệm bảo vệ đến cùng, dù có phải trả giá đắt đi chăng nữa.
Trung Quốc Không thể vin vào cái cớ một công hàm ngoại giao từ thời chiến tranh, không có số liệu cụ thể mà tranh lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam.
Ngay một việc tôi xin nói thêm về vấn đề Trung Quốc là hiện nay các đài truyền hình của Việt Nam suốt ngày này qua ngày khác chỉ biết chiếu phim của Trung Quốc, đó là một mối nguy hiểm tiềm tàng, chỉ biết đến cái lợi trước mắt, quên mất cái lợi lâu dài.
Le Quang
Một ngày nào đó, khi tiềm lực kinh tế và quốc phòng Việt Nam chúng ta hùng mạnh, nhất định chúng ta hoặc con cháu chúng ta phải lấy lại Hoàng Sa và các đảo tại quần đảo Trường Sa do Trung Quốc xâm lược. Nhưng trước tiên, chúng ta phải dạy cho bọn chúng bài học thế nào là bị xâm lược.
U49, VN
Biên giới, địa giới hành chính Việt Nam do Quốc hội thảo luận, quyết định, thông qua lệnh của Chủ tịch nước lúc đương thời là Chủ tịch Hồ Chí Minh mới có giá trị pháp lý trong nước và quan hệ quốc tế (Giới chức khác không có thẩm quyền).
Công hàm ngắn không mang ý nghĩa quy phạm pháp luật, tuổi thọ của nó ngắn vô cùng ngắn về mặt thời gian, có ý nghĩa là người này làm hài lòng người kia do "lịch sự ngoại giao" mà thôi.
Tran Thanh Mai, Tokyo
Tóm lại có thân hay không thân với TQ thì VN luôn là kẻ thiệt thòi trước dã tâm của họ. Chỉ buồn là khi thanh niên VN biểu tình ôn hòa phản đối TQ năm ngoái thì nhà cầm quyền đã dẹp bỏ theo chỉ đạo từ xa của TQ.
Thu Thuy
Người dân VN không thể nào quên được trận chiến biên giới Việt Trung, trong khi lực lượng và quân đội VN đang trừng phạt Khmer Đỏ thì TQ bất ngờ tấn công VN, điều làm cho Hà Nội bất ngờ. Đối với TQ chúng ta luôn phải đề phòng, về Trường Sa chúng ta không bao giờ nhân nhượn , vì TS mất sẽ rất nguy hiểm cho VN.
Good citizen, VN
Ông TT-HN chắc chắn không phải người VN, theo tôi đoán không lầm ông là "chinois" (Tàu) hay dân tộc nào khác?
Chúng ta chỉ biết và phải biết trân trọng và giữ gìn đất nước ta đang ở do tiền nhân tổ tiên ta đã đổ bao nhiêu xương máu trong nhiều thế kỷ để dựng nên. Chúng ta chỉ biết và phải biết TQ đã xâm lăng nước ta, vậy toàn thể người VN yêu nước phải cùng nhau bảo vệ tổ quốc chống kẻ xâm lược, thế thôi!
Thật đáng buồn cho những quan điểm lệch lạc và lẻ loi! Thử hỏi nếu đại đế Quang Trung và con cháu VN của ông sau này có ý định đánh lấy lại 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây mà theo lịch sử ngàn xưa là của VN thì có hợp lý không? Bản đồ trên thế giới phải vẽ lại tất cả à?
DT
Tôi thấy nhiều bạn đọc người Việt trên diễn đàn này do chính kiến chủ quan của mình nên đã phát biểu rất thiếu hiểu biết về cái "công hàm ngày 14/9/1958". Một số vị cứ lên diễn đàn mở miệng ra là chỉ biết đổ lỗi cho chính quyền cộng sản! Về vấn đề này theo ý kiến của tôi: Công hàm đó không có tính pháp lý quốc tế đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi vì năm 1958 chính quyền Sài gòn, theo hiệp định Geneve, được giao quản lý phần lãnh thổ và lãnh hải bên dưới vĩ tuyến 17. Chính quyền Sài gòn lúc đó mới chính là người có tư cách pháp nhân để quản lý 2 quần đảo này!
Vì vậy tôi tin ông Lợi đã nói chính xác : "TQ đã xuyên tạc cử chỉ hữu nghị của VNDCCH", vì vào thời điểm đó TQ đang xảy ra cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan, VNDCCH có ra công hàm thỉ cũng chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần mà thôi! Nói đến Đài Loan, tôi nhắc cho mọi người biết rằng chính quyền Đài Loan đã đổ quân lên chiếm đảo Ba Bình (trong quần đảo Trường Sa) vào năm 1956, tức là thời điểm mà chế độ miền Nam Việt Nam chưa đủ sức quản lý vùng biển này!
Hơn 50 năm qua người Đài Loan đã xây dựng một căn cứ rất lớn ở đảo Ba Bình mà chế độ Sài gòn hồi trước năm 1975 cũng không có ý kiến ý cò gì cả!
Phía TQ khi vin vào một cái "công hàm nặng tính chính trị, nhẹ tính pháp lý" để làm bằng chứng chủ quyền thì chính TQ đã cho thế giới thấy cái lý lẽ quá yếu ớt của họ về chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Huy NT, SG
Ở đây tôi không dám bàn về cái lợi hay hại của chế độ VN trước và sau 1975. Nhưng nếu người TQ vẫn giữ thái độ xâm lược đối với 2 quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa,có lẽ đã đến lúc Chính phủ VN nên chuẩn bị cho việc sử dụng 1 biện pháp cứng rắn hơn để bảo vệ quyền lợi cho dân tộc là vừa.
Thien Phong, Saigon
Ông Đồng cũng chỉ là 1 người Việt Nam như bao người Việt Nam, tại sao tài sản chung mà ông ta lại có quyền cho người này người nọ. Hiệp ước Geneve 1954 đã phân chia rạch ròi vĩ tuyến 17 Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. Hiệp ước này có Trung Quốc tham dự hẳn hòi.
Nếu như chỉ trong vòng 4 năm mà Trung Quốc quên điều này thì đây là 1 chính phủ hành xử vô luật lệ với thế giới - không thể chấp nhận được. Còn ông Đồng đúng là đang lừa người anh em TQ, dám đem cho người khác cái không phải của mình.
S.
Bản chất của TQ là bành trướng và bá chủ TG. Họ phát triển kinh tế , nghiên cứu khoa học, ... cũng chỉ nhằm vào mục đích đó mà thôi. Biết được mối nguy này thì phải luôn đề phòng và có đối sách thích hợp từng thời điểm, không những VN mà cả thế giới nữa. Mỹ, Nga gì cũng vậy.
Tu Viet My
Cứ réo tên PVĐ, chứ biết đâu đấy là chỉ thị của bộ CT TƯ ĐCSVN. Nước VN cũng xui, nếu miền nam thắng thì công hàm ấy đâu có giá trị mà VN còn có pháp thẩm là có hải chiến để giữ đất vì HS và TS đều nằm dưới vĩ tuyến 17. Tại sao chính ĐCSVN không nói ra là đã chỉ đạo sai lầm và đã không qua QH thẩm định?
TT, HN
Đây đều là vấn đề do lịch sử để lại thôi. Theo tôi biết, ở bên TQ, cũng có rất rất nhiều người như các bạn VN để bảo vệ lãnh thổ cũng như lãnh hải của nước nhà, họ cũng có rất rất nhiều lý do để chứng minh đây là lãnh thổ lãnh hải của họ, họ cũng chửi bới chính quyền cộng sản TQ đã nhường bộ và bán đất biên giới cho VN. Mặt khác, trước thời Tây sơn, lãnh thổ VN có phải rộng lớn như bây giờ đâu?
Nước Chăm biến đi đâu rồi, là ai đã huỷ diệt nước này? Trên trang web của Campuchia, họ còn nói tất cả miền nam và miền đông nam đều là của họ mà bị VN chiếm mất, phải giải thích thế nào?
Rian
Tôi nghĩ là ông Lợi đây đang cố chống chế thôi. Chuyện Trung Quốc công khai chủ quyền là việc của TQ, còn Việt Nam vẫn có quyền phản đối chứ, sao lại gửi công hàm chẳng rõ ý nghĩa gì như vậy. Tôi không tin là chính phủ mình bấy giờ lại ngây thơ nghĩ đây chỉ là một hành động hữu nghị và Trung Quốc cũng không tự dưng trong thông cáo đe doạ Đài Loan lại gộp luôn cả Trường Sa và Hoàng Sa vào.
Dẫu gì thì tôi nghĩ rằng thời ấy Trường Sa và Hoàng Sa nằm ở phía Nam Việt Nam, nếu bây giờ chính quyền đồng ý phát ngôn rằng công hàm hồi ấy không có giá trị đối với hai quần đảo mà hồi bấy giờ đang ở phía Nam là lí lẽ xác đáng nhất, chứ đừng viện hai chứ "hữu nghị" ra biện minh, chẳng ai nó tin cho đâu. Bây giờ cứ nghĩ đến lịch sử "hữu nghị" giữa VN và TQ mà trong tôi cũng thấy lo sợ.
Zhu, HN
Vấn đề này chúng ta đã nói nhiều, quan điểm chung là phản đối Trung Quốc có điều về lý Việt Nam đang ở thế bất lợi hơn. Việc rất nhiều tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam không nhiều giá trị so với Công hàm 1985 của Ông Phạm Văn Đồng. Và giờ chúng ta có thể lật lại vấn đề nếu có những những yếu tố sau: - Đầu tiên phải dựa vào các văn bản giữa 2 bên từ 1958 trở lại đây, và xác minh rõ giá trị mang tính pháp lý hoặc cam kết về các vấn đề này(Điều này thực sự rất khó khả thi).
- Việc thứ 2 và cuối cùng chúng ta có thể làm là con đường ngoại giao trong bối cảnh Trung Quốc đang tạo ra sự quan ngại của các nước lớn về sự trỗi dậy đầy bành trước của mình. Trung Quốc luôn hiểu họ sẽ trả giá đắt nếu giải quyết các vấn đề trên bằng con đường quân sự với chúng ta, nhưng chúng ta lại không hiểu rằng nguyên nhân từ đâu chúng ta rơi vào hoàn cảnh này?
Chiphoi, VN
Sao Việt Nam không đặt vấn đề với phía Mỹ xem họ có cần đặt "lá chắn tên lửa"ở khu vực này không nhỉ? Lịch sử đã chứng minh rằng VN & TQ không thể là anh em, 1000 năm đô hộ giặc Tàu(TQ), 100 năm đô hộ giặc Tây(Pháp, Mỹ, Anh..).Vậy giặc nào âm mưu nhiều hơn nhỉ? Khái niệm về XHCN, TBCN giống như lối sống của mỗi người, nhưng không phải có lối sống khác nhau thì không thể làm bạn với nhau.
Phodem
Cái câu vừa là đồng chí vừa là anh em- Núi liền núi sông liên sông, môi hở răng lạnh bây giờ phải nghĩ lại Răng cắn môi đã có sẹo lại muốn biến Biển gần đất liền? Dựa lưng vào cái Núi này trước sau cũng gãy lưng mất, hình như Lịch sử cứ lập đi lập lại mãi như vậy? Thế kỉ XXI rồi đất nước ta dù nhỏ nhưng chí khí ta cũng như ai, họ có gì ta có đó, tôn trọng nhau thì cùng sống, hiếp đáp nhau thì người sứt mũi thì kẻ cũng xụi tay. Cái gì của ta ta cứ làm tới đâu thì tới, cứ cho đấu thầu hết xem họ làm gì nhau?
Windy, HN
Thế đấy Người Trung Quốc đểu giả, rõ ràng họ cũng hiểu rằng ông Phạm Văn Đồng không hề có ý như họ xuyên tạc nhưng họ cứ nói thế. Còn người VN thì thật không biết nói sao...có thể gọi đó là...thật thà. Tóm lại quả thật Trung Quốc là kẻ thù đầu tiên và là kẻ thù nguy hiểm nhất của người VN. Người VN hãy nhớ đấy...
Michael Nguyen, Saigon
Gửi đến tất cả những người cho rằng Việt Nam nên thân thiết với Trung Quốc và đừng để cho vì việc riêng mà trở thành Gruzia thứ 2 của biển Đông. Nếu ai nói vậy thì hãy mở con mắt cho to ra. Gruzia nhờ chơi với phương Tây mà khi bị Nga đánh còn được phương Tây can thiệp. Còn Việt Nam, ôm Trung Quốc đi rồi khi nó đánh cho thì Mỹ cũng không moi ra được nổi một cái lí do gì để can thiệp.
Pinochio
Trong việc này thì tôi công nhận là TQ đúng, họ không hề xuyên tạc cử chỉ hữu nghị nào cả! Trong tuyên bố của TQ thì họ đã khẳng định chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa, thì việc ghi nhận và tán thành đồng nghĩa với chuyện đồng ý về khẳng định chủ quyền này. Nói là không phải thì đúng là ngây ngô như con nít lên ba, không ai chấp nhận được; đặc biệt là người đại diện cho cả một quốc gia.
Nói thẳng ra thì lúc đó nước VN DCCH không làm chủ 2 quần đảo này nên họ không quan tâm cũng đúng. Mất vào tay giặc Mỹ hay mất vào tay giặc Tàu thì cũng...y như nhau nên công nhận cho xong. Nó giải thích cho tại sao khi Mỹ bắt tay với TQ thì TQ có đủ điều kiện để đánh chiếm 2 quần đảo này vào 1974. Họ không còn sợ lực lượng nào cản trở việc này (VN DCCH có thể đưa hải quân ra chặn đánh để tiếp sức hải quân VNCH, nhưng chuyện này đã không xảy ra!!! Và sau đó cũng không thấy VNDCCH lên tiếng phản đối.)
Hoang Nguyen, USA
Hơi đâu mà nói chuyện lý lẽ với kẻ đang tìm cách ăn cướp, hơn nữa kẻ ăn cướp này lại có đao to búa lớn. Một điều duy nhất là dân tộc VN phải đoàn kết một lòng, từ ông bí thư cho đến thường dân. Xa lánh cái chiêu bịp bợm XHCN anh em, kết thân với các nước tự do dân chủ, Tây phương va Hoa Kỳ, mới may ra thoát khỏi hiểm họa xâm lăng của Trung Quốc ...
Trần Bình, Canada
Tôi thấy sự cãi lí của ông Lợi rất cùn. Công hàm Phạm văn Đồng này rất khó hủy, phải có 1 hành động cụ thể thế nào, như từ QH. Chứ cứ cãi ngang kiểu này thì chỉ có dân Việt phải nghe, đời nào nói với TQ như thế?
Ngọc Minh, Hải Phòng
Nhìn chung mỗi quốc gia đều có những toan tính riêng cho vấn đề lãnh hải của mình. Ngoài nguồn tài nguyên thì đây là một điểm trọng yếu của an ninh quốc phòng, ai cũng nghĩ bị đe dọa về an ninh mà thực chất chính họ đe doạ người khác, ai cũng nghĩ mình chịu thiệt thòi nếu chia theo luật quốc tế nhưng chính họ lại được lợi nhiều nhất.
Việt Nam tự thấy cái lợi lớn nhất là sự hợp tác, cái lợi lớn nhất là đừng để "miếng bánh nhỏ phá hỏng bữa tiệc lớn".
Để thưởng thức đầy đủ xin các nhà lãnh đạo ngồi lại với nhau. Bữa tiệc không thể thiếu món cay nhưng đừng để nó là món chính. Bên cạnh những người ngồi vào bàn tiệc còn có những nhà phê bình ngoài cuộc, đừng để bị chi phối bởi họ vì họ cũng muốn ăn lắm chứ.Tốt nhất đừng để! bàn ăn thêm trật chỗ. Chẳng ai muốn thấy một "Gruzia" mới ở biển Đông cả.
Lê Duy
Theo tôi ông PVĐ đã làm một việc lợi bất cập hại. Chẳng lẽ ông PVĐ lại không hiểu thâm ý của Trung Quốc?
Nhưng đó là vấn đề lịch sử. Nhà nước Việt Nam cần phải làm gì để lấy lại Hòang Sa chứ chỉ to miệng tuyên bố chủ quyền và trấn áp nhân dân biểu tình chống TQ thì được gì trong lúc Trung Quốc đã xây dựng căn cứ quân sự tại Hòang Sa.
tranquangthien, HCMC
Bây giờ ông Lưu Văn Lợi mới nói chuyện TQ xuyên tạc cử chỉ hữu nghị. Sao ông không nói sớm.
Tuy vậy có còn hơn không. Tôi nghĩ chính phủ nên có công hàm giải thích cho TQ rõ ý định của cố TT Phạm Văn Đồng trong công hàm 14/9/58 không có bao hàm việc nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ.
Có dư luận nói rằng cựu NT Nguyễn Mạnh Cầm lại bảo rằng công hàm này là vì thời chiến tranh nên phải làm để tranh thủ sự ủng hộ của TQ. Như vậy có phải ta tự mâu thuẫn hay không dám dứt khóat trong lập trường?
Ẩn danh
Quan hệ Việt Nam, Trung Quốc vẫn tốt đẹp như cái "bắt tay và ôm của hai nhà lãnh đạo" Nhiều người nghĩ đó là viên đạn bọc đường, là sự bằng mặt mà không bằng lòng? Nhưng theo tôi Việt Nam cần Trung Quốc cũng như Trung Quốc cần Việt Nam vậy, nhất là tình hình thế giới biến động này, chỉ cần mất một đồng minh đã là mất cả một hậu phương vững trắc. Việt Nam với ảnh hưởng ngày càng lớn trên thế giới, Trung Quốc với sự phát triển mạnh mẽ, cả hai đang rất cần một tiếng nói chung để cùng đưa thế giới về trạng thái cân bằng. Hai thái cực Nga-Mỹ đang cho thấy sự bất ổn tiềm tàng, và cả hai bên đều kêu gọi đồng minh.
Trung Quốc- một người khổng lồ đang đứng ngoài cuộc, và Việt Nam một trung gian hoà giải liệu đây có phải là lúc để chúng ta bàn cãi về lãnh thổ. Nếu nói Việt Nam sợ Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ thì cũng nên xem lại phải chăng Trung Quốc sợ những động thái của Mỹ đối với Việt Nam? Giữa các thái cực giằng co này việc nguy hiểm nhất là mất đi "tám chữ vàng" trong quan hệ ngoại giao của hai bên.
MCR
Ngoại giao là nghệ thuật chơi chữ. Bây giờ càng mắng TQ thì càng làm cho họ cười mình.
Chỉ còn một cách là quốc hội phải ra nghị quyết diễn giải công hàm của ông PVĐ như cách ông Lợi nói.
Quốc hội sẽ không bác bỏ công hàm của ông PVĐ, vì làm như thế vừa không có lợi về ngoại giao (người ta cười mình trước sau bất nhất), vừa không có lợi về chính trị (vì ông PVĐ dù sau cũng là khai quốc công thần của nhà nước VN hiện tại).
Sau khi có nghị quyết thì lúc ấy chắc chắn là sẽ làm mếch lòng TQ nhưng chắc họ cũng chửi mấy ngày là cùng, sau đó thì họ không thể trưng công hàm đó ra nữa vì thế giới biết họ đang lợi dụng tình hữu nghị.
Minh Quang, Sài Gòn
Tôi thấy mỗi lần ông Nông Đức Mạnh gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc là ông ta ôm hôn dữ lắm? quan hệ tốt vậy sao lại chiếm đất của nhau?
DR, TP HCM
Dã tâm của Trung Quốc đã quá rõ ràng không gì bàn cãi. TQ muốn chiếm bằng được hai quần đảo này của Việt Nam( Thậm chí còn nhiều hơn nữa) nên dùng mọi lý lẽ. Là dân Việt Nam nên nhớ rằng có thể làm bạn với bất kỳ ai nhưng với anh hàng xóm phương bắc thì không.
Hoang Nguyen, HN
Theo tôi, bây giờ không phải là lúc chúng ta tranh cãi với Bắc Kinh mà chúng ta phải đoàn kết sẵn sàng bảo vệ, cũng như giành lại lãnh thổ mà ông cha ta đã dùng xương máu để gây dựng. Bài học năm 1979 nói lên rằng Trung Quốc luôn là kẻ thù của dân tộc ta.
A soldier, VN
Tôi không hiểu rõ hải phận 12 hải lý (nautical mile # 5.5 km) theo tuyên bố của Chu Ân Lai căn bản tính từ ở đâu của lãnh thổ TQ để từ đó bao gồm luôn các quần đảo HS và TS của VN ta? Thời điểm năm 1958 ông PVĐ làm TT, việc công nhận lãnh hải 12 hải lý theo công hàm của TQ có phải do mình ông quyết định? Tại sao cứ đổ lỗi một mình ông? Là một TT kỳ cựu của VNDCCH, chẳng lẽ ông TT PVĐ còn bị phía TQ "chơi chữ" (jeu de mots) trong một văn bản ngoại giao hay sao?
Theo ông Lợi, công hàm của TT PVĐ chỉ có 3 câu, trong đó chỉ tán thành bản tuyên bố của TQ và không đề cập gì đến lãnh thổ lãnh hải của họ; tuy nhiên khi họ chủ yếu đề cập đến vấn đề lãnh hải, ta gửi thư tán thành, điều đó có nghĩa là mặc nhiên công nhận "hoàn toàn" ý kiến theo gi! ải thích của họ.
Vừa là TT vừa là một nhà ngoại giao kinh nghiệm chẳng lẽ ông PVĐ không biết ghi thêm vài câu "khẳng định rõ" lãnh thổ, lãnh hải của hai bên cho chắc ăn? Việc "lấy điểm" với TQ khi họ ra công hàm phản đối hạm đội Mỹ đến gần đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan xem ra là "tai họa khôn lường". Chu Ân Lai dù gì cũng một thời là bạn của Bác Hồ mà đối xử "bất nghĩa" với VN như thế sao? TQ rất nguy hiểm và mãi mãi là mối nguy hiểm, hãy luôn đề phòng!
Saigon 01
Sống bên cạnh ông hàng xóm đểu thì thật khổ. Năm 1979 nếu dạy cho Việt Nam bài học dễ dàng thì TQ có dạy tiếp đến tận Sài Gòn không nhỉ?! Như vậy thì Đông dương bây giờ là của ai?

Wednesday, September 17, 2008

16/09 Đánh giá yêu sách của TQ với ExxonMobil và BP


16 Tháng 9 2008 - Cập nhật 13h12 GMT 

 
 
Bản đồ vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn.
Bản đồ vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn.

Dù Mỹ không nghiêng về bên nào trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, Đại sứ Mỹ và Thứ trưởng ngoại giao Mỹ nhân chuyến thăm Việt Nam mới đây cũng đã khẳng định rằng các vùng mà ExxonMobil đang hợp tác là thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Những động thái này không phải là không có lý do, bởi Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, trong khi những tranh chấp của Trung Quốc đối với những vùng này lại hoàn toàn không có căn cứ.
Chủ quyền không thể chối cãi
Nhiều người hiểu lầm rằng những phản đối của Trung Quốc liên quan đến các khu vực nói trên là sự tranh chấp chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Thế nhưng, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam. Bởi, tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam ở những vùng này.
Theo Điều 57 và 76 của UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển quốc tế), các quốc gia ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa là 200 hải lý từ đường cơ sở và một vùng thềm lục địa; nếu địa lý đáy biển cho phép thì có thể rộng tối đa là 350 hải lý từ đường cơ sở hay 100 hải lý từ độ sâu 2500 mét.
UNCLOS cũng quy định là nếu có tranh chấp, trong trường hợp vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của hai quốc gia chồng lấn lên nhau, thì tranh chấp phải được giải quyết một cách công bằng (Điều 74 và 83).
Giới thiệu tác giả
Lê Minh Phiếu, nghiên cứu sinh ở Đại học Montesquieu - Bordeaux IV, Pháp.
Dương Danh Huy, tiến sĩ vật lý tại Đại học Southampton, Anh Quốc, hiện làm IT consultant tại Oxford

Khi xét xử tranh chấp biển, Toà án Công lý Quốc Tế thường vạch đường trung tuyến giữa hai nước làm ranh giới thử nghiệm, sau đó Toà sẽ xem xét tỷ lệ diện tích được chia cho mỗi nước có gần như tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan tới tranh chấp hay không.
Trong việc vạch ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, luật biển quốc tế không tính những đảo nhỏ, xa bờ, không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng. Nguyên tắc này được pháp điển hóa tại Khoản 3 Điều 121 của UNCLOS và cũng đã áp dụng trong các vụ kiện như thềm lục địa Bắc Hải, Lybia/Malta, Vịnh Maine, Guniea/Guniea-Bisseau.
Toàn thể vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn phía bắc ranh giới với Indonesia và Malaysia, hoặc nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, hoặc nằm trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam. Do vậy, theo Điều 57 và 76 của UNCLOS, những vùng này hiển nhiên thuộc về Việt Nam.
Ngoài Trung Quốc ra, các nước Malaysia, Philippines và Indonesia không tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Riêng Brunei tranh chấp một phần nhỏ của vùng Tư Chính – Vũng Mây, nhưng không tranh chấp lô 133 và 134. Như vậy, những nước Đông Nam Á, dù có tranh chấp Trường Sa, vẫn tôn trọng UNCLOS và không có đòi hỏi lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam.
Về yêu sách của Trung Quốc
Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò dầu khí ở vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm 1994, Trung Quốc phản đối hợp đồng dầu khí giữa Việt Nam và Mobil ở vùng Thanh Long. Năm 2007, Trung Quốc gây áp lực buộc BP ngưng hoạt động trong dự án dầu khí ở hai vùng Mộc Tinh, Hải Thạch. (Các vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn).
Năm nay, Trung Quốc gây áp lực với ExxonMobil yêu cầu không được cộng tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò dầu khí ở bồn trũng Nam Côn Sơn.
Nhưng, chiếu theo luật quốc tế, những yêu sách này hoàn toàn không có cơ sở.
Vùng Tư Chính - Vũng Mây nằm ngoài lãnh hải 12 hải lý của các đảo Trường Sa. Các vùng Thanh Long (05-1B), Mộc Tinh (05-3), Hải Thạch (05-2), Lan Tây, Lan Đỏ (06-1) nằm ngoài phạm vi đường trung tuyến từ Trường Sa.


Tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa đều có diện tích dưới 0,5 km vuông, tự thân chúng không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng. Theo các quy tắc pháp lý quốc tế đã dẫn, những đảo này không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chúng chỉ được hưởng lãnh hải tối đa là 12 hải lý (Điều 121, khoản 2 và 3 UNCLOS).
Bản đồ 2 cho thấy lãnh hải 12 hải lý của tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa nằm ngoài vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Vì vậy, tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa không cho Trung Quốc cơ sở pháp lý để tranh chấp vùng này.
Hơn nữa, vùng này nằm về phía Việt Nam của đường trung tuyến giữa bờ biển Việt Nam và các đảo Trường Sa trên thuỷ triều cao (Bản Đồ 2).
Vì vậy, Trung Quốc tranh chấp vùng Tư Chính – Vũng Mây, vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch, hay bất cứ vùng nào khác trong bồn trũng Nam Côn Sơn, với Việt Nam là một điều hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhằm bảo toàn tính toàn vẹn toàn lãnh thổ trên biển, điều tiên quyết là Việt Nam cần phải giữ vững và thực thi chủ quyền ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Việc Trung Quốc thành công trong việc xâm lấn vùng này sẽ là một tiền lệ nguy hiểm cho tất cả vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam ở Biển Đông.
Hơn nữa, không nên lẫn lộn giữa tranh chấp những vùng biển rõ ràng thuộc về Việt Nam, bao gồm các vùng biển được đề cập trên đây, với tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa. Không để cho Trung Quốc dùng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để ngụy trang cho việc xâm lược các vùng đó của Việt Nam, cũng như việc chiếm phần diện tích 75% trên Biển Đông.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Lê Minh Phiếu từ Pháp và Dương Danh Huy từ Anh. Quý vị có ý kiến xin gửi về địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk .


Hoàng Mai
Các nhà lãnh đạo VN nghỉ gì khi ký hiệp định vịnh Bắc Bộ lại lấy trung tuyến Hải Nam và Cồn Cỏ để phân chia vùng lãnh hải và khu đặc quyền kinh tế. Họ có để ý đến nguyên tắc "Toà sẽ xem xét tỷ lệ diện tích được chia cho mỗi nước có gần như tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan tới tranh chấp hay không". Phân chia như thế là họ bóp họng ta rồi còn gì.
Patriot
Tin này vừa là tin buồn vừa là tinvui! Buồn thì mọi người cũng biết rồi: sẽ gây hấn lâu dài với TQ. Một khi đã thua trên biển Đông thì gần như mất hết biển, rất tai hại với sự phát triển của VN.
Tin vui là vì qua việc này cho cả thế giới thấy bộ mặt thật của TQ: 1 kẻ xâm lược già mồm và quá sức ngang ngược! Bản thân TQ cũng sẽ "cứng họng" khi viện dẫn luật pháp trong khu tranh chấp này!

Tuesday, August 19, 2008

18/08 Thử tìm giải pháp cho Biển Đông


18 Tháng 8 2008 - Cập nhật 13h19 GMT



 
 
Phương án chia vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (bản đồ 1)
Vùng biển trong các hình tròn 12 hải lý chung quanh mỗi đảo không được chia cho nước nào cho tới khi tranh chấp chủ quyền đảo được giải quyết.
Vùng biển ngoài các hình tròn này được chia theo đường trung tuyến từ bờ biển chính của mỗi nước.
Chiến tranh Gruzia là một lời nhắc cho Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia về một số thực trạng của tranh chấp Biển Đông.

Thứ nhất, bạo lực đã từng bùng nổ ra trong quá khứ và có thể sẽ bùng nổ ra trong tương lai.
Thứ nhì, khi bạo lực bùng nổ ra thì nước có sức mạnh quân sự áp đảo sẽ tiến được nhiều bước trong việc thực hiện chủ trương của mình.

Thứ ba, khi bạo lực bùng nổ, sự can thiệp quốc tế sẽ có giới hạn.

Ngoài những thực trạng này, tranh chấp Biển Đông có một thực trạng ít được để ý tới: điều nguy hiểm nhất về tranh chấp Biển Đông không phải là tranh chấp chủ quyền đối với các đảo mà là Trung Quốc yêu sách đòi khoảng 75% toàn diện Biển Đông.

Giải pháp Biển Đông

Với những thực trạng này, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia cần phải đạt được một giải pháp với Trung Quốc cho Biển Đông dựa trên pháp lý, ngoại giao và hiệp định trước khi bạo lực bùng nổ ra.

Để có một giải pháp công bằng, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia phải có lập trường chung và phải ủng hộ lẫn nhau.

Để có lập trường chung, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei phải giới hạn và tạm gác tranh chấp chủ quyền đối với các đảo Trường Sa sang một bên và chú trọng tới các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Vì vậy, chính phủ Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei cần phải tích cực làm việc với nhau để thực hiện và tranh thủ sự hỗ trợ cho một giải pháp dựa trên những nguyên tắc sau:

Nguyên tắc 1: Giới hạn tranh chấp chủ quyền đảo và tầm quan trọng của tranh chấp chủ quyền đảo.

(a) Theo Luật Biển LHQ, những đảo trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Pratas và Scarborough Reef nằm dưới mức thuỷ triều cao không được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế ra tới 200 hải lý, hay thềm lục địa ra tới 350 hải lý.

(b) Những đảo trong quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Pratas và Scarborough Reef nằm trên mức thuỷ triều cao chỉ được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý nhưng không được hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế ra tới 200 hải lý, hay thềm lục địa ra tới 350 hải lý. Nguyên tắc này dựa trên điều 121.3 của Luật Biển LHQ.

Nguyên tắc này có nghĩa một nước đòi chủ quyền đối với một trong những đảo này chỉ có thể đòi chủ quyền đối với lãnh hải 12 hải lý chung quanh đảo này (các hình tròn 12 hải lý trong bản đồ 1) nhưng không được dùng đảo này để đòi vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa ra xa đảo hơn 12 hải lý.

Nguyên tắc 2: Tạm gác tranh chấp chủ quyền đảo sang một bên.

Điều này có nghĩa tạm gác tranh chấp chủ quyền đối với lãnh hải 12 hải lý chung quanh mỗi đảo (các hình tròn 12 hải lý trong bản đồ 1) sang một bên. Tạm thời không xác định nước nào có chủ quyền đối với lãnh hải 12 hải lý chung quanh mỗi đảo, cho tới bao giờ vấn đề chủ quyền đối với đảo được xác định.
Nguyên tắc này cho phép đi tới một giải pháp cho vùng biển bên ngoài các hình tròn 12 hải lý trong bản đồ, tức là cho phần lớn của Biển Đông, để thực hiện sự công bằng và an ninh cho Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Việt Nam trong vùng biển rộng lớn này.
Nguyên tắc 3: Chia Biển Đông bên ngoài lãnh hải 12 hải lý chung quanh mỗi đảo (bên ngoài các hình tròn 12 hải lý trong bản đồ 1) cho các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Việt Nam và Trung Quốc.

(a) Chia vùng biển này thành các vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa cho những nước trên.

(b) Diện tích chia cho mỗi nước có thể được tính theo đường trung tuyến từ bờ biển chính của mỗi nước, không tính Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Pratas hay Scarborough Reef, hay theo tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan của mỗi nước, hay theo một kết hợp của hai nguyên tắc này. Đây là hai nguyên tắc thường được Toà Án Quốc Tế dùng để xử tranh chấp biển. Hai nguyên tắc này dẫn tới kết quả gần nhau cho Biển Đông.

(c) Các nước ký hiệp định biên giới cho ranh giới của vùng biển được chia.

Chia ranh giới

Bản đồ 1 minh hoạ chia thềm lục địa cho Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Việt Nam và Trung Quốc theo đường trung tuyến và cho thấy mỗi nước Philippines, Việt Nam, Trung Quốc sẽ được khoảng ¼ Biển Đông, và Malasia, Brunei, Indonesia sẽ được tổng cộng khoảng ¼ Biển Đông.

So sánh với Trung Quốc yêu sách đòi ¾ Biển Đông, để lại tổng cộng ¼ cho Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam, có thể thấy nguyên tắc trước công bằng và có lợi cho Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam hơn, và những nước này sẽ ủng hộ nguyên tắc đó.

Vì Biển Đông được chia thành các vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa cho nhưng nước trên, Luật Biển LHQ ban cho những nước khác một số quyền hạn đáng kể, so sánh với để cho Trung Quốc chiếm 75% Biển Đông như “biển lịch sử” của họ, và vì vậy những nước khác sẽ ủng hộ nguyên tắc này.

Thềm lục địa Biển Bắc được Toà Án Quốc Tế chia theo đường trung tuyến (Bản đồ 2)
Nguyên tắc chia biển theo đường trung tuyến thành các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đã được thực hiện ở Biển Bắc như trong bản đồ số 2.

Nếu Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei tạm gác tranh chấp chủ quyền đảo sang một bên, có lập trường chung và ủng hộ lẫn nhau thì có thêm khả năng để đạt được một giải pháp để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình trên phần lớn Biển Đông. Thêm vào đó, các nước này sẽ có thêm cơ hội được ASEAN và thế giới ủng hộ.

Nếu Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei bị vướng mắc ở tranh chấp chủ quyền các đảo và không thể đi xa hơn thì sẽ kéo dài tình hình “chủ quyền chưa rõ rệt”, “thế giới không ủng hộ nước nào” và “chia để trị” mà Trung Quốc có thể lợi dụng để thực hiên yêu sách chiếm 75% Biển Đông.

Các đề nghị này rất mong nhận được ý kiến đóng góp để cuộc thảo luận thêm có ý nghĩa.



Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả Dương Danh Huy, tiến sĩ vật lý tại Đại học Southampton, Anh Quốc, hiện làm IT consultant tại Oxford và từ 2005 bắt đầu nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông. Tác giả hiện đang soạn một cuốn sách về đề tài này, nhấn mạnh giải pháp hòa bình dựa trên Luật Biển của Liên hiệp quốc (UNCLOS 1982). Quý vị có ý kiến xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk

Tuesday, August 5, 2008

05/08/2008 Bước tiến của công nghệ vũ khí Nga







Xe tăng T90
Kim ngạch xuất khẩu vũ khí của Nga vượt 6 tỷ USD trong năm 2007
Máy bay là món hàng bán chạy nhất trong thị trường vũ khí và thiết bị quốc phòng trên thế giới, đó là nội dung được cô đọng thành tiêu đề cho bài phỏng vấn với tổng giám đốc Rosobronoexport.

Đây là tập đoàn độc quyền xuất khẩu vũ khí của Nga, mà doanh số năm ngoái vượt quá sáu tỷ USD, và Việt Nam cũng được nhắc đến trong số các khách hàng quan trọng, bên cạnh Trung Quốc, Ấn Độ, Venezuela, Algeria, Iran, Ai Cập, Malaysia, Kazakhstan và Syria.

Bài phỏng vấn được tờ báo Nga, Rossiyskaya Gazeta thực hiện, dịch sang tiếng Anh và đăng trên phụ san được họ mua chỗ từ tờ Daily Telegraph, ra ngày 31.7.2008 vừa rồi.

Xu thế nước Nga đang chiếm lại thị trường vũ khí thế giới được thể hiện rõ trong riêng một trang chuyên đề với hình ảnh máy bay Su-35, xe tăng T-90 và trực thăng Mi-35 đang tập trận.

Năm 2007 chi phí quốc phòng trên thế giới đạt con số kỷ lục, mà nhà cung cấp hàng đầu là Hoa Kỳ, theo sau là Nga rồi đến Đức và Pháp, tổng giám đốc Anatoly Isaikin cho biết.

Theo ông, tập đoàn Rosobronoexport nhận được có đến 20 tỷ USD tổng trị giá đơn hàng, đủ để ngành công nghiệp quốc phòng Nga "bận rộn" trong 5-7 năm tới, "ngành công nghệ cao duy nhất của Nga đủ tiêu chuẩn xuất khẩu của thế giới".
Máy bay vận tải AN-70
Ngành vũ khí Nga suy thoái dưới thời Gorbachev

Phân tích của giới chuyên gia từ tạp chí Russia Profile ghi nhận các ý tưởng về xuất khẩu vũ khí kém phổ biến dưới thời Gorbachev nhưng bắt đầu mạnh trở lại trong thời gian gần đây, khi thấy hiện tượng mà họ coi là Hoa Kỳ rút lui khỏi các hiệp ước kiểm soát vũ khí, mở rộng sang các thị trường truyền thống của Nga.

Bài báo trên cùng chuyên trang của chuyên gia Dmitry Babich ghi nhận mốc thay đổi là vào cuối thập niên 1980 đầu 1990, các nhà máy quốc phòng thất bại trong việc chuyển đổi sang thị trường dân dụng.

Nhưng các công ty quốc phòng Nga sau đó đã nhanh chóng tìm khách hàng nước ngoài để giành lại vị trí số hai về cung cấp vũ khí trên thế giới, khi đó thuộc về Anh Quốc.

Nhờ xuất khẩu ồ ạt qua nhiều ngả khác nhau mà các nhà máy vũ khí của Nga vẫn tiếp tục hoạt động bình thường ngay cả khi bộ quốc phòng Nga ngừng đặt mua xe tăng hồi năm 1996.

Friday, July 25, 2008

24/07 Tìm giải pháp về Biển Đông


24 Tháng 7 2008 - Cập nhật 11h25 GMT
 


Thủ tướng Trung Quốc phát biểu ở cuộc họp của ASEAN
ASEAN có quan hệ tế nhị với Trung Quốc
Tìm sự trợ giúp của bên thứ ba để đối chọi Trung Quốc là phương cách duy nhất cho các nước dính líu vào vụ tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Đó là nhận định của một nhà nghiên cứu về chiến lược chính trị Trung Quốc, tại trường Đại học Hải chiến (Naval War College), Rhodes Island, Hoa Kỳ.

Tiến sĩ Toshi Yoshihara, đã viết nhiều bài về chiến lược biển của Trung Quốc, nói với BBC Việt ngữ hôm 23/07/08 rằng đe dọa mới nhất của Trung Quốc với công ty dầu khí Exxon Mobil tiêu biểu cho cách hành xử của Bắc Kinh quanh vấn đề Biển Đông.

Toshi Yoshihara: Tôi không ngạc nhiên. Năm 2002, Trung Quốc và ASEAN ký Quy tắc Hành xử chung về Biển Nam Trung Hoa, theo đó các bên tạm thời để yên các bất đồng và sẽ giải quyết chung một cách hòa bình. Bề ngoài thì có vẻ Trung Quốc ngả sang hướng giải quyết hòa bình, nhưng theo tôi, Trung Quốc chỉ “câu giờ" trong khi vẫn hiện đại hóa quân đội và tăng cường thế mạnh của họ.

Vì thế tôi không ngạc nhiên khi Trung Quốc không cho các công ty nước ngoài khảo sát dầu tại đây. Trung Quốc sẽ tiếp tục tuyên bố chủ quyền của họ như đã làm, bắt đầu là vụ chiếm Hoàng Sa năm 1974, chiếm thêm một phần Trường Sa từ Việt Nam năm 1988, lấy thêm bãi đá San hô của Philippines năm 1995.

BBC:Cả ASEAN và Trung Quốc đều nói về nhu cầu hợp tác để giải quyết mâu thuẫn. Nhưng theo ông, khả năng hợp tác khả thi đến đâu?

Có một vài vấn đề dĩ nhiên họ có thể hợp tác, thứ nhất là đảm bảo không để bất kỳ va chạm nào biến thành xung đột. Thứ hai, họ có thể kiềm chế không tự ý đào tìm dầu mà không có sự đồng ý của các nước còn lại.

Những chuyện như vậy có thể được giữ trong khuôn khổ của Quy tắc Hành xử chung. Nhưng vấn đề căn bản không thể giải quyết, đó là các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ. Bắc Kinh xem toàn bộ Biển Nam Trung Hoa thuộc về lãnh hải Trung Quốc. Dĩ nhiên đó là đi ngược lại luật pháp quốc tế. Nhưng Trung Quốc cứ khăng khăng như thế, có nghĩa là cuộc tranh chấp không có lối ra.

BBC:Và các nước trong ASEAN chắc chắn không đủ sức để thách thức Trung Quốc.

Đúng vậy. ASEAN ở trong tình thế bấp bênh, cả về kinh tế, quân sự, ngoại giao, và ngay cả nếu họ tập hợp lại, cũng không đủ sức phản công Trung Quốc. Vì thế ASEAN đã lách bằng cách phát triển quan hệ gần gũi không chỉ với Trung Quốc, mà cả với Mỹ. Đây là chuyện rất tế nhị vì ASEAN không muốn bị buộc phải lựa chọn, hoặc là Trung Quốc hoặc là Mỹ.
Tiến sĩ Toshi Yoshihara
Dạy ở khoa Chiến lược - Chính sách ở Naval War College
Nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chính sách Đối ngoại, Washington DC
Đề tài quan tâm: văn hóa chiến lược Trung Quốc, chính sách quốc phòng Nhật...

BBC:Có những người ở Việt Nam chê trách chính phủ đã không dám lớn tiếng với Trung Quốc. Lại cũng có ý kiến cho rằng Hà Nội chẳng thể làm gì hơn vì Trung Quốc quá mạnh. Theo ông, chiến lược của một nước nhỏ nên là thế nào trong vấn đề này?

Tôi nghĩ nếu các nước nhỏ có khả năng chống lại Trung Quốc, chắc chắn họ sẽ làm, hoặc bằng động thái ngoại giao cứng hơn hoặc phô trương sức mạnh quân sự. Việt Nam, Philippines, Brunei, là những nước không đủ lực lượng để chứng tỏ quyết tâm trước Trung Quốc.

Cách duy nhất là dựa vào bên thứ ba. Bên thứ ba nổi bật nhất, chắc chắn, là Hoa Kỳ, Nhật Bản hoặc phần nào đó là Ấn Độ. Điều mà ta có thể chứng kiến trong tương lai là sự liên kết địa chính trị kiểu mới, tức là Đông Nam Á lặng lẽ tìm tới bên thứ ba để phòng vệ lại Trung Quốc, mà không công khai nói rằng Trung Quốc là nguồn gốc gây ra bất ổn.

Đây là chuyện rất thú vị. Liệu Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Úc sẽ đóng vai trò gì, để không chỉ nhằm trấn an Đông Nam Á mà còn gián tiếp nói với Trung Quốc rằng phía thứ ba sẽ phản kích lại hành vi gây hấn của Trung Quốc.

BBC:Cho tới nay, sự quan tâm của Mỹ với vấn đề Biển Đông vẫn chỉ là làm sao tàu bè đi lại tự do. Theo ông, Washington liệu đến một lúc nào đó sẽ phải can dự sâu hơn?

Quả thực hiện nay quan tâm của Mỹ chỉ dừng lại ở mức như quý vị nói. Nhưng có một góc độ chiến lược liên quan tới Mỹ. Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào nguồn năng lượng từ Trung Đông và châu Phi. Ông Hồ Cẩm Đào nhiều lần nhắc tới “sự khó xử Malacca”, tức là nguồn năng lượng của Trung Quốc có thể bị cản trở vì tai nạn, nhưng cũng có thể vì thế lực bên ngoài khóa chốt eo biển Malacca.

 Quan tâm chiến lược của Trung Quốc đối với Biển Nam Trung Hoa liên quan tới an ninh năng lượng.
 
Toshi Yoshihara

Quan tâm chiến lược của Trung Quốc đối với Biển Nam Trung Hoa liên quan tới an ninh năng lượng. Và đó là nơi mà Mỹ có tiềm năng trở thành vấn đề cho Trung Quốc. Nhiều nhà chiến lược Trung Quốc tin rằng nếu khủng hoảng xảy ra, ví dụ vì Đài Loan, Mỹ sẽ tăng sức ép bằng sự đe dọa phong tỏa eo biển Malacca. Thực ra liệu chuyện này có khả thi về quân sự hay không, là một câu hỏi rất lớn. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng có nhiều người ở Trung Quốc rất nghi ngờ Mỹ vì vấn đề này.

BBC:Theo đánh giá của ông, kịch bản khả thi nhất tại Biển Đông trong vài năm tới là gì?

Quy tắc Hành xử chung đem lại cơ chế ngăn ngừa xảy ra xung đột lớn. Mặt khác, do các bên không nhượng bộ xung quanh đòi hỏi chủ quyền, nên bế tắc vẫn sẽ tồn tại trong tương lai gần.

Thursday, July 24, 2008

23/07 Đằng sau lời đe dọa của Trung Quốc


23 Tháng 7 2008 - Cập nhật 10h01 GMT
 

Hải quân Trung Quốc
Quân đội Trung Quốc thuộc hàng hùng mạnh nhất thế giới
Báo điện tử Asia Times vừa có bài của tác giả Peter Navarro nói về bất đồng mới nhất xung quanh chuyện thăm dò dầu khí ở khu vực biển Đông. Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị:

Trong một bất đồng nữa liên quan tới quyền khai thác dầu ở khu vực Nam Hải (mà Việt Nam gọi là Biển Đông), Trung Quốc đã bắn súng cảnh báo tập đoàn ExxonMobil. Bắc Kinh tức giận vì Exxon muốn hợp tác với PetroVietnam để thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh các quần đảo Spratlys và Paracels (Trường Sa và Hoàng Sa) còn tranh chấp.

TQ đã cảnh báo Exxon phải rút khỏi dự án, mà Bắc Kinh mô tả là vi phạm chủ quyền của TQ.
Cuộc tranh cãi mới nhất này mang lại nhiều nguy cơ, nhưng cũng có nhiều điều cần tìm hiểu thêm về chính sách biển của TQ.

Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng của Hoa Kỳ, khu vực Nam Hải (biển Đông) có trữ lượng dầu chắc chắn khoảng bảy tỷ thùng; và khảo sát địa chất của Mỹ cho hay có thể có khoảng 20 tỷ thùng nữa.
Về phần mình, TQ đánh giá một cách lạc quan rằng trữ lượng phải lên tới 200 tỷ thùng. Có nghĩa là TQ có thể khai thác hai triệu thùng mỗi ngày, tương đương 25% mức tiêu thụ, ước tính khoảng 8 triệu/ngày.

Phần lớn trữ lượng chưa được khai thác đó được tin là nằm ở khu vực các quần đảo đang tranh chấp.

Đối đầu?

Các đảo Hoàng Sa nằm xa TQ, VN và Philippines một khoảng cách tương đương nhau; và ba nước TQ, VN và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền với quần đảo này.

Tuy nhiên , TQ là nước gần như thống lĩnh tại khu vực Hoàng Sa.

Năm 1974, TQ đã lợi dụng tình hình chiến sự giữa hai miền Nam Bắc VN để đánh chiếm Hoàng Sa, lúc đó đang do quân đội miền Nam VN nắm giữ.

Hải quân Trung Quốc
Bắc Kinh tăng cường chiến lược biển

Các đảo Trường Sa thì hiện đang được TQ, VN, Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền. Tại đây các đảo lớn nhỏ cũng có trữ lượng dầu tuy chưa xác định nhưng được tin là rất lớn.

Với giá trị cao như vậy, không ngạc nhiên rằng TQ và VN đã nhiều lần đụng độ vũ trang xung quanh quần đảo này. Năm 1988, đã có một trận hải chiến mà sau đó TQ chiếm thêm sáu đảo và rặng san hô nữa.

Năm 1994, tàu chiến của VN đã hộ tống thuyền thăm dò của TQ khỏi khu vực tranh chấp.
Vụ Exxon xảy ra sau một nỗ lực thành công khác của TQ trong việc đẩy một công ty dầu khí nước ngoài khác khỏi quần đảo Trường Sa. Năm ngoái, đe dọa tương tự của TQ đã khiến tập đoàn BP phải ngừng dự án hợp ytác khai thác khí trị giá hai tỷ đôla với VN.

Hành động mới của TQ sẽ chỉ làm tăng căng thẳng giữa hai nước vốn có hai quân đội thuộc loại lớn. Quân đội TQ lớn nhất thế giới, còn quân đội VN lớn nhất Đông Nam Á.

Trong khi quan hệ kinh tế giữa TQ và VN gần đây đã phát triển tốt đẹp, các tiền đề lịch sử và chính trị giữa hai bên vẫn là thù hằn và thiếu tin tưởng.

Chưa có bên nào quên đi một 'cuộc chiến VN' khác xảy ra năm 1979.

TQ đã xâm lược VN với xe tăng và khoảng 90.000 quân lính để trả thù hành động thân Nga của VN tại Campuchia. Chỉ trong mười ngày, từ 40.000 tới hơn 100.000 lính TQ và VN tử trận, theo các thống kê khác nhau.

Con số này có thể còn nhiều hơn số lính Mỹ chết trong cuộc chiến hơn mười năm ở VN (52.000).

Vị thế địa chính trị

Và chúng ta không chỉ nói về quy mô quân đội. TQ đã xây dựng một loạt căn cứ quân sự tại Nam Hải và TQ cũng là quốc gia duy nhất tìm cách phát triển cơ sở hải quân nước sâu để đối trọng Hoa Kỳ.

Mục tiêu chính là để bảo vệ eo biển Malacca trong trường hợp xung đột và Hoa Kỳ cấm vận dầu lửa/
Eo biển nhỏ hẹp này nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và thường xuyên bị coi là điểm xung đột hàng hải.
Tàu ngầm của Trung Quốc
Trung Quốc thiết lập nhiều căn cứ hải quân tại Nam Hải

Nó mang giá trị chiến lược cao vì đa phần dầu thô mà TQ nhập khẩu cho cỗ máy kinh tế của mình phải qua con đường này. Bắc Kinh lâu nay đã sợ rằng Mỹ sẽ chặn đường lưu thông qua Malacca nếu quan hệ hai bên xấu đi thí dụ về vấn đề Đài Loan hay một vấn đề nào khác.

Các căn cứ ở Nam Hải và tiềm lực hải quân ngày càng mạnh của TQ cũng mang một nghị trình chiến lược khác chứ không chỉ để bảo vệ con đường hàng hải quan trọng nói trên.

Chúng tạo ra một sự 'khoanh vùng' của TQ bao quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giàu năng lượng. Chi tiết này đã không qua được mắt VN cũng như Hoa Kỳ, khi dân biểu Dana Rohrabacher từ năm 1998 đã nhắc tới nó.

Tất nhiên bi kịch hiện nay là việc TQ hà sách, đe dọa, đang làm chậm trễ thêm quá trình khai thác nguồn tài nguyên dầu khí mà cả khu vực cần trong bối cảnh thị trường năng lượng ngày càng thu hẹp.
Một sự hợp tác để khai thác các trữ lượng này sẽ tăng lợi ích cho tất cả các quốc gia đang tranh chấp, đồng thời giảm áp lực lên thị trường dầu lửa quốc tế.

Peter Navarro là giáo sư về kinh doanh tại Đại học California-Irvine, bình luận cho kênh CNBC và là tác giả cuốn The Coming China Wars (FT Press).