Friday, June 24, 2011

24/06 Lợi ích kinh tế từ Biển Đông (Kỳ II)


12:52:58 Thứ sáu, 24/06/2011
GS. TSKH Nguyễn Mại
Khai thác hải sản trên Biển Đông. Ảnh: PV.
(baodautu.vn) Để đạt mục tiêu năm 2020, kinh tế biển đóng góp 53-55% GDP và 55-60% kim ngạch xuất khẩu, cải thiện đời sống dân cư vùng biển và ven biển, bảo đảm an sinh xã hội, cần đổi mới tư duy phát triển, khai thác lợi thế địa - chiến lược của nước ta.
Kỳ II:
Bảy kiến nghị khai thác lợi thế địa - chiến lược
Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X năm 2007 đã đề ra chủ trương và định hướng phát triển kinh tế biển, đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển.
Trên cơ sở đó, một số văn bản pháp quy như Nghị định 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đã được ban hành, nhiều đề án, chương trình có liên quan đến kinh tế biển đang được tiến hành từ điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, đến quản lý và bảo vệ nguồn lợi về biển, hợp tác quốc tế, đã thu được những kết quả ban đầu đáng khích lệ, như xuất khẩu thủy sản tăng khá nhanh trong 5 năm gần đây; 5 tháng đầu năm 2011 đạt 2,13 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm trước; các tỉnh ven biển với những khu nghỉ dưỡng hiện đại, tour du lịch hấp dẫn với khách quốc tế, cộng đồng dân cư đã có ý thức hơn đối với khai thác tài nguyên biển theo hướng bền vững, công tác quy hoạch và quản lý nhà nước đã có chuyển biến theo hướng tích cực.
Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết để thực hiện mục tiêu đã đề ra cho năm 2020.
Tại Diễn đàn Kinh tế biển Việt Nam năm 2011, được tổ chức vào ngày 8/6 ở Nha Trang trong khuôn khổ “Tuần lễ biển Việt Nam”, nhiều nhà khoa học cho rằng, để đạt được mục tiêu năm 2020, kinh tế biển đóng góp 53 - 55% GDP và 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu, cải thiện đời sống dân cư vùng biển và ven biển, bảo đảm an sinh xã hội, thì cần đổi mới tư duy phát triển, khai thác lợi thế địa - chiến lược của nước ta, gắn với đổi mới thể chế theo hướng tiếp cận thể chế tối ưu, để tạo ra không gian sinh tồn, không gian phát triển lâu dài và bền vững cho dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đó kiến nghị:
Thứ nhất, điều chỉnh để bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của các cảng biển (trung bình cứ 40 - 50 km có 1 cảng), 15 khu kinh tế đã được cấp phép ở các tỉnh ven biển, để tránh “hội chứng khu kinh tế”; những khu kinh tế chưa triển khai, thì nên dừng lại, chưa nên có thêm khu kinh tế mới để tránh đầu tư dàn trải, lãng phí đất đai. Đánh giá khách quan các khu nghỉ dưỡng ven biển, tránh tình trạng chiếm đất, thu hồi những dự án quá chậm triển khai, bảo đảm lợi ích cộng đồng trong việc sử dụng bờ biển.
Thứ hai, cơ cấu ngành nghề kinh tế biển hợp lý, giải quyết các xung đột lợi ích. Ví dụ, khai thác tài nguyên, đánh bắt hải sản, phát triển du lịch biển với bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái động thực vật biển. Từ đó, hình thành quy hoạch tổng hợp và thống nhất đối với biển, đảo và vùng ven biển để bảo đảm tính đồng bộ trong thực hiện.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện quy hoạch sử dụng biển và đảo ở cấp tỉnh, áp dụng hệ tiêu chí đánh giá môi trường biển và hiệu quả kinh tế - xã hội về biển, có tính đến giải pháp ứng phó biến đổi khi hậu và mực nước biển dâng cao, từ đó tăng thêm nguồn lực và phân bố hợp lý nguồn lực cho các vùng kinh tế, từng địa phương, chấm dứt tình trạng khai thác tự phát lãng phí tài nguyên biển, đảo và vùng ven biển.
Thứ tư, nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước về biển theo hướng quản lý tổng hợp vùng bờ biển bằng cơ chế, chính sách liên ngành, vùng kinh tế, quy hoạch không gian theo hướng phát triển bền vững của các vùng chức năng; nhằm đến năm 2020, 28 địa phương ven biển áp dụng phương thức quản lý tổng hợp vùng bờ biển. Thực hiện phân chia ranh giới vùng biển và phân cấp quản lý biển cho chính quyền tỉnh, giao mặt nước biển cho cộng đồng sử dụng, tự quản lý dưới sự hướng dẫn và giảm sát của Nhà nước.
Thứ năm, tiếp cận phương thức quản lý không gian biển trong quản lý biển, đảo thông qua mô hình thực nghiệm và nhân rộng, quản lý tài nguyên và môi trường biển dựa vào cộng đồng; có cơ chế, chính sách và bảo vệ lợi ích cộng đồng dân cư, để họ chủ động tham gia quản lý biển, đảo.
Thứ sáu, coi trọng 3 nhân tố cơ bản trong kinh tế biển: công khai hóa thông tin cập nhật cho cộng đồng doanh nghiệp, dân cư về những vấn đề có liên quan đến biển, đảo, chủ quyền quốc gia; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên biển và quản lý nhà nước theo hướng phát triển bền vững bằng cơ chế, chính sách thích ứng với trình độ phát triển kinh tế biển để khai thác mọi nguồn lực, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của chiến lược kinh tế biển.
Thứ bảy, hợp tác quốc tế, nhất là với các nước ASEAN, với các nước có lợi ích ở Biển Đông, coi trọng phương châm “cân bằng quyền lực” trong khu vực để xử lý các tranh chấp chủ quyền và các sự kiện gây căng thẳng, bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc trong một thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh và xung đột lợi ích.
Thực hiện thành công Chiến lược Kinh tế biển đến năm 2020, không những góp phần quan trọng vào mục tiêu đưa nước ta trở thành nước về cơ bản công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020, mà còn nâng cao đáng kể vị thế địa - chiến lược của nước ta trong khu vực: “Trước mặt Thái Bình Dương sóng vỗ/Phơi phới bay cờ đỏ sao vàng/Chúng ta đứng thẳng hiên ngang/Sáng ngời một ngọn hải đăng hòa bình” - Tố Hữu.

No comments:

Post a Comment