Friday, July 1, 2011

Quỉ nước Nam, Vương đất Bắc!


“Quỉ nước Nam, Vương đất Bắc!”
hay Trí Tuệ, Dũng Cảm và Chiến Thắng


« Năm đồng đổi lấy một xu,
Người khôn đi học, thằng ngu làm thầy. »

(Ca dao Việt Nam)


Nhìn vào dòng dài của lịch sử nhân loại, người ta nhận thấy rằng bất cứ cuộc tranh hùng nào cũng là tranh hùng của trí tuệ và dũng cảm. Kẻ chiến thắng thường là kẻ có trí tuệ và can đảm vượt hơn đối phương. Sự ưu việt của trí tuệ thường thấy trong lãnh vực tư tưởng, triết lý, văn hóa, văn chương, khoa học, sau được cụ thể trong lãnh vực kỹ thuật, áp dụng.

Trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ nói một cách tổng quát, khái lược đến cuộc chiến giữa nước ta và quân Mông Cổ vào thế kỷ thứ 13, để rút tỉa kinh nghiệm, và xét đóan đúng mức chính sách bành trướng của Trung Cộng cùng sự khiếp nhược, hèn yếu của tập đoàn cộng sản, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho tới ngày nay.

Nhìn xa, rồi lại nhìn gần. Xa ra thế giới, để rút tỉa kinh nghiệm. Gần tới Việt nam, để vững lòng tin rằng cuộc tranh hùng quốc cộng sớm muộn sẽ đi đến kết thúc, mang phần thắng về người quốc gia, không phải chỉ vì lẽ đế quốc cộng sản Liên sô đã sụp đổ, mà còn vì trí tuệ cộng sản Việt Nam quả thật là vô trí tuệ, kiểu những câu vè Việt Nam đã nói rõ :

« Năm đồng đổi lấy một xu ; người khôn đi học ; thằng ngu làm thầy. » hay :
« Nói theo, nói leo, nói dở, nói dài, nói dai, nói ngang, nói bướng. », để ám chỉ sĩ phu, trí thức cộng sản.

I) Cuộc chinh phục thế giới của quân Mông Cổ cầm đầu bởi Thành cát tư Hãn
Thành cát tư Hãn, có nhiều nguồn sử về năm sinh của ông, có người cho rằng ông sinh năm 1155, người khác lại cho rằng ông sinh năm 1165 hay 1167, ngày chết thì rõ, đó là ngày 18/8/1227, là người sáng lập ra đế quốc Mông cổ, có thể nói là đế quốc rộng lớn nhất từ xưa đến giờ, với 39 triệu cây số vuông vào thời đó.

Có người cho rằng Thành cát tư hãn và dân Mông cổ là những người vô học, vô trí tuệ. Dân Mông Cổ là loại người hung ác, qua sự kiện họ đi đến đâu cũng chỉ biết chém giết và tàn phá, qua câu nói nổi tiếng của Thành cát tư Hãn : « Thú vui duy nhất của đời ta là đi lấy nhà người làm nhà của mình, lấy vợ người làm vợ mình và lấy con người làm nô lệ cho mình « , qua sự kiện quân lính Mông Cổ đến chiếm thành Smarkan, thủ phủ của một nước Trung Á thời bấy giờ, có một thư viện được coi là một trong những thư viện lớn nhất thế giới, đã dùng sách vở để thổi cơm, nấu nước tắm ; những sự kiện đó làm cho một số người đi đến kết luận là Thành cát tư Hãn và dân Mông cổ là người vô trí tuệ, thiếu văn hóa, thiếu văn minh, man dại. Điều này không phải là hoàn toàn sai. Tuy nhiên, một con người và một dân tộc đã tạo dựng lên một đế quốc được coi là lớn nhất thế giới từ xưa đến giờ, con người này, dân tộc ấy, vào thời đó, so với những dân tộc họ đánh chiếm được, không phải là họ thua về trí tuệ đối với những dân tộc này.

Thật vậy, những nước dưới sự thống trị của đế quốc Mông Cổ vào lúc bấy giời là Tàu, các nước Trung Á, Ả Rập và một phần Âu châu gồm miền nam nước Nga, nước Ba lan và Hung gia lợi.
Nước Tàu dưới thời nhà Tống, theo Tống Nho, như người Việt chúng ta gọi một cách mỉa mai, có ý ám chỉ là quá hủ lậu, phẩm trật, kiêu căng, tự mãn, cho mình là nhất, quá khinh thường phụ nữ, và những giai tầng cấp dưới. Các nước Ả rập, thì đi theo đạo Hồi, nhưng cũng là một thứ đạo Hồi thoái trào, hủ lậu.

Chính vì vậy mà Thành cát tư Hãn đã tuyên bố : « Trời đất đã nổi giận trước những tính kiêu hãnh quá độ và tính xa phí cùng cực của người Tàu. Tôi sống ở một vùng hoang dã phía bắc, không có việc pha phí quá độ, tôi trở về sự đơn thuần, mộc mạc và sự tinh khiết. » Ông đã biết kêu gọi sự hợp tác của những trí thức Phật giáo ở Tàu, và những trí thức theo Trường phái nestorien, chống lại sự thoái trào của đạo Hồi.

Ngay ở điểm này, chúng ta thấy Thành cát tư Hãn không phải là con người không có trí tuệ. Ngày hôm nay, một số sử gia Mông cổ đã tìm thấy chứng tích chứng tỏ ông là người có học thức cao, biết đọc những bài thuyết pháp về đạo Lão.

Ông mồ côi cha sớm, do mẹ nuôi nấng, dạy giỗ. Thời thơ ấu, ông sống một cuộc sống cơ hàn, cực khổ, khó nhọc. Chính mẹ ông đã dạy ông lòng can đảm, can trường, nhẫn nại, biết học hỏi ở người khác, ngay ở kẻ thù, biết tiến, biết lui. Ông rất kính trọng mẹ ông và những người phụ nữ nói chung. Điểm này chúng ta đã thấy ông hơn những vua quan đời nhà Tống ở bên Tàu và vua quan thời đạo Hồi suy vi ở những nước Ả rập, coi thường phụ nữ, tự kiêu, tự đại, cho mình là trung tâm vũ trụ một cách vô lý.

Ông đã biết hết sức dụng nhân tài, ủy quyền cho những người xứng đáng và trung thành, chứ không hoàn toàn dựa trên quan hệ gia đình ; ban bố luật thành văn và ra lệnh cho mọi người phải theo ; cam kết giành cho thần dân và binh lính sự giàu có do những chiến lợi phẩm có được, không phải chỉ giành cho ông và tướng tá, mà còn chia xuống cho cả lính và vợ con. Mẹ ông là người nuôi rất nhiều trẻ mồ côi, những cô nhi quả phụ, không riêng gì của lính mà cả địch thù, nếu họ biết qui thuận ; và đây đồng thời cũng là một cơ quan tình báo lấy tin tức từ phía địch.

Chiến thắng của người Mông Cổ không phải chỉ vì họ đi ngựa giỏi, bắn cung hay, kiếm cung của họ là một loại tốt nhất thời bấy giờ ; mà còn là tài tổ chức quân đội kỷ luật, có tinh thần tranh đua, có một hệ thống tình báo tinh vi ; và một bộ phận hậu cần đến từ chính gia đình vợ con đi theo đoàn quân lúc ban đầu.

I I ) Cuộc chiến giữa vua quan nhà Trần và quân Mông Cổ

Có người cho rằng dân Việt và vua quan nhà Trần chiến thắng quân Mông Cổ là tình cờ, vì lúc đó Thành cát tư Hãn đã chết, đã truyền đến đời cháu. Điều này sai lầm, không tình cờ, vì không phải chiến thắng một lần, mà là 3 lần, đế quốc Mông Cổ lúc đó mặc dầu đã đến đời cháu, nhưng là đang ở thời kỳ cực thịnh, vừa mới chiến thắng nhà Tống, cai trị cả nước Tàu, và đang sửa soạn đánh Nhật, sau hoãn lại, rồi baĩ bỏ vì thua ở Việt Nam và Hốt tất liệt chết.

Thật vậy, cuộc kháng chiến chống quân Mông cổ của dân Việt và vua quan nhà Trần diễn ra 3 lần khác nhau.

Mông cổ là một dân tộc ở phía bắc nước Tàu, ở vào thượng lưu sông Hắc giang ( Amour). Người Mông Cổ hung tợn, hiếu chiến, cỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ, lại dưới sự cai trị, chỉ huy của Thành cát tư Hãn, một con người giỏi về tổ chức, nên cả dân tộc đã trở thành một đội quân hùng mạnh nhất thế giới. Thêm vào đó, dân Mông cổ vào thời đó còn là một giống dân du mục, đi đâu cũng mang gia đình vợ con, dê, ngựa, bò, cừu, một nguồn tiếp vận sẵn có, một trong những vấn đề nan giải vào thời đó cũng như thời nay, khi một quốc gia gửi quân đi đánh nước ngoài. Không những gia đình đi theo để tiếp vận, mà còn là một hãng xưởng luyện võ khí, đúc gươm, làm tên cung, và một nguồn an ủi cho người lính về tinh thần. Thành cát tư Hãn đã biết khai thác tối đa việc này, cũng như chấp nhận hàng quân, cho nhập vào đoàn, vừa để làm yếu địch, vừa khai thác thông tin, tình báo.

Thành cát tư Hãn chết năm 1227, truyền ngôi lại cho người con thứ 3 là A loa đài ( Ogotai). Sau A loa đài truyền ngôi cho con là Quí Do ( Gouyouk). Quí do làm vua được 3 năm thì mất, ngôi vua Mông Cổ về chi khác. Người em, con nhà chú là Mông Kha lên. Ở điểm này chúng ta đã thấy hoàng gia Mông Cổ tân tiến hơn hoàng gia nhà Tống bên Tàu lúc bấy giời, đó là ngôi vua không nhất định truyền cho con và phải con trưởng, mà có thể truyền cho em, cho anh, cho một giòng khác, và hội đồng hoàng tộc bầu lên vua, không chỉ có những người hoàng gia, mà con có những công thần, tướng lãnh giỏi. Mông Kha chết, ngôi về tay người em là Hốt tất Liệt. Chính Hốt tất liệt tiêu diệt nhà Tống, đưa đế quốc Mông Cổ đến chỗ cực thịnh.
Khi Mông Kha còn sống, Hốt tất liệt có mang quân sang đánh nhà Tống, có cử một viên tướng đi đánh tỉnh Vân Nam bây giờ, viên tướng này có gửi một sứ giả sang nước An Nam ta, bảo vua Trần thái Tôn thần phục Mông Cổ.

Thái Tôn lúc bấy giờ không những không chịu, mà còn sai Trần quốc Tuấn đem quân lên trấn giữ ở phía bắc. Đó là vào năm 1257.

Vào năm 1282, vua Mông cổ cho sứ sang nước ta dụ rằng : « Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương, bói toán, thợ khéo mỗi hạng 2 người. »

Vua Trần Nhân Tông sai người chú họ là Trần di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho mình. Nhưng vua Mông cổ không bằng lòng, quyết định chiếm giữ quyền cai trị của nước ta, bèn xuống chỉ lập Tuyên phủ ti, đặt quan để sang giám thị các châu huyện, coi nước ta chỉ là một huyện của nước Tàu, như những lần bị đô hộ trước. Quan Mông cổ sang tới nơi, Nhân Tông không nhận, đuổi về Tàu.

Cái trí và dũng của vua quan nhà Trần , nhất là vua Trần nhân Tông, đó là nhất định không nhận, như Trần bình Trọng, mặc dầu bị địch bắt, được chiêu dụ, nhưng vẫn khẳng khái tuyên bố : « Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. »

Quyết định của vua Trần nhân Tôn và câu nói của Trần bình Trọng đáng được giới lãnh đạo cộng sản hiện nay và hậu thế suy ngẫm.

Vua Mông cổ thấy sứ mình bị đuổi về nước, giận lắm, bèn lập Trần di Ái làm An Nam quốc vương, phong cho Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn phản quốc đó về nước.

Trần di Ái thấy vua Mông phong cho cũng nhận, đưa cũng về, trong bụng nghĩ rằng chuyến này, nhờ sức ngoại bang, thì được làm vua, nếu không thì đổ tội cho quân Mông cổ bắt ép. Sài Thung đưa bọn Trần di Ái tới gần ải Bắc quan, có tin báo về kinh đô. Vua Trần nhân Tông liền sai một tướng dẫn một đội quân đi đánh Sài Thung và bọn nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, chạy trốn về Tàu. Còn lũ Việt gian Trần di Ái bị bắt, bị giáng xuống làm lính, mặc dầu là chú vua.

Vua Mông cổ thấy Sài Thung bị mù chạy về nước, túc giận lắm, sai con là Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, cùng với 2 tướng là Ô Ma Nhi và Toa Đô dẫn 50 chục vạn quân, giả tiếng mượn đường nước Nam sang đánh Chiêm thành.

Quan trấn thủ vùng Lạng sơn do thám được tin ấy, cho người về báo với triều đình.
Hành động trí tuệ đầu tiên của vua quan nhà Trần đó là họp hội nghị Bình than (1) hội các vương hầu để bàn kế chống giặc, có thể nói như bộ tham mưu bây giờ.

Hành động trí tuệ thứ nhì đó là họp các bô lão, dân gian ở điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Đây là một hành động vừa sáng suốt, vừa dân chủ, mặc dầu vào thời bấy giờ.
Quân Mông cổ lúc đầu rất là mạnh, mặc dầu Trần hưng Đạo đã điều quân trấn giữ ở những nơi hiểm yếu, nhưng lúc đầu phải thua chạy về Vạn kiếp. Vua Trần nhân Tông, nghe Hưng đạo đại Vương thua chạy về Vạn Kiếp, liền dùng một chiếc thuyền nhỏ tới Hải đông tức Hải dương ngày hôm nay, rồi cho vời Trần hưng Đạo đến bàn việc, nói với Hưng đạo Vương rằng :

« Thế giặc to như vậy mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là Trẫm chịu hàng đi để cứu muôn dân ? » Hưng đạo Đại Vương liền trả lời :

« Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tôn miếu xã tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng. »

Chúng ta chỉ cần nghe 2 câu đối đáp ngắn gọn trên, chúng ta cũng đã thấy rõ trí tuệ và dũng cảm của vua quan nhà Trần. Vua nói vậy để vừa thử lòng, vừa khuyến khích quyết chí, dũng cảm của bề tôi. Bề tôi trả lời rất lễ phép, nhưng rất là đanh thép.

Như trên đã nói, thế giặc lúc đầu rất mạnh, không những Vạn kiếp bị mất, mà thành Thăng long cũng thất thủ, Toa Đô lấy Nghệ An, Trần hưng Đạo phải đưa vua về Thanh Hóa. Mặc dầu vậy, đức Trần Hưng Đạo vẫn trèo non, vượt bể, dãi gió dầm sương, cương quyết một lòng vì nước, tìm kế đánh giặc, cứu nước, không một lúc nào rối sợ. Trong khi đó thì có nhiều người, trong đó có cả hoàng tộc như bọn Trần ích Tắc, Trần Tú Viễn đều ra đầu hàng Thoát Hoan.
Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm Thành kéo ra đánh đất Nghệ An. Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài để giữ những đường hiểm yếu. Toa Đô đánh mãi không được, mà lương thảo thì mỗi ngày một cạn, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền, định vượt bể, ra ngoài bắc hợp với quân của Thoát Hoan.

Trần quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh Hóa phi báo. Vua Trần nhân Tông hội các quần thần hỏi kế. Trần Hưng Đạo tâu :

« Toa Đô tự Chiêm Thành trở ra, qua vùng Ô lý (tức Thuận hóa ngày nay), Hoan ( Nghệ an), Ái (Thanh hóa), đường sá gập gềnh, quân sĩ vất vả, nay lại vượt bể ra ngoài bắc, thì sức lực cũng đã mõi mệt. Vậy nay nên sai một tướng đem quân ra đón đường mà đánh thì chắc phá được. »

Nhân Tông nghe lời, sai Trần nhật Duật mang 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải dương. Toa Đô phải lui ra cửa Thiên Tường. Sau đó Toa Đô bị trúng tên, chết ở trận Tây Kết, còn Ô Mã Nhi thì lẻn lên một chiếc thuyền nhỏ, chạy về Tàu.

Trần nhật Duật thắng trận. Trần hưng Đạo được tin ấy, vào tâu với vua rằng :

« Quân ta mới thắng, khí lực đang hăng, mà quân Mông mới thua, tất chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan, để khôi phục kinh thành. »

Vua nghe lời, liền ra lệnh sắp sửa tiến binh.Bỗng có Trần quang Khải ở Nghệ An ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu xếp quân sĩ để ra đánh Thăng Long và truyền lệnh cho Trần nhật Duật đóng quân, giữ chặn đường, không cho bọn Toa Đô kéo về hợp với Thoát Hoan.

Trần quang Khải, với Trần quốc Toản và Phạm ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa, đi vòng đường bể, đến bến Chương Dương, sấn vào đánh chiến thuyền của quân Mông cổ. Quân ta đánh hăng quá, quân Mông địch không nổi, phải bỏ chạy. Quân ta tiến lên bộ đuổi đánh đến tận chân thành Thăng Long, rồi hạ trại. Thoát Hoan mang đại binh ra cự, nhưng bi phục binh của Trần quang Khải đánh úp lại, quân Mông phải bỏ thành Thăng Long, chạy qua sông Hồng Hà, sang giữ mặt phía Bắc, vùng Kinh bắc, tức Bắc Ninh ngày hôm nay.

Thoát Hoan đóng quân ở Bắc giang, nghe tin Toa Đô tử trận, Ô Mã Nhi trốn về Tàu, quân lính ai nấy cũng đều ngã lòng, trời lại nóng nực, chướng khí bốc lên, quân sĩ bị dịch, chết hại cũng nhiều ; bởi thế nên có bụng rút quân về Tàu.

H

No comments:

Post a Comment