Tuesday, August 30, 2011

30/08 Khi nước Tầu loạn lạc... The Coming Collapse of China

----- Forwarded Message -----
From: Tran Ho <TranHo1@yahoo.com>
To: vbHouston dalat <vobihouston@yahoogroups.com>; Huyet Hoa <HUYETHOA@yahoogroups.com>
Sent: Tuesday, August 30, 2011 10:50 PM
Subject: [HUYET-HOA] Khi nước Tầu loạn lạc... The Coming Collapse of China
 
 
Date: Monday, August 29, 2011, 11:28 PM
Breaking News: 
 
Tin nóng khi Nostradamus Nguyễn Xuân Nghĩa bốc quẻ lưỡng hung tinh La Hầu và Kế Đô ếm mệnh cho nội trạng của mấy chú Ba Tầu Cộng, chả chóng thì chầy mấy chú Ba sẽ tiêu tùng vì hiện mắc căn bệnh ung thư di căn ác tính:
http://anhhaisg.blogspot.com/2011/08/noi-loan-tai-trung-quoc.html
Trong khi hằng tuần Nostradamus Lý Minh Nhiên (Lý Đại Nguyên) bốc linh quẻ siêu sao La Hầu và Kế Đô cho tương lai mịt mù cho tập đoàn ngu muội Hà Nội cùng mấy chú Ba Chệt Luộc Bắc Kinh bá quyền xâm lược, đầu xỏ ngang ngược, mời xem:

http://son-trung.blogspot.com/2011/06/ly-ai-nguyen-trung-quoc-viet-nam.html
 

2011-08-18
Vũ Hoàng và Nguyễn Xuân Nghĩa - RFA Ngày 20110817
Khi nước Tầu có loạn...


AFP: Công an và an ninh Trung Quốc xuất hiện mọi nơi.

Vì sao một quốc gia đã đạt mức tăng trưởng rất cao và trở thành nền kinh tế hạng nhì thế giới lại cứ hay gặp bất ổn? Câu hỏi trên được nêu ra khi người ta theo dõi tình hình Trung Quốc trong mấy tháng qua với hàng loạt tin tức về tình trạng động loạn xã hội lan rộng ở nhiều nơi. Câu hỏi ấy càng đáng chú ý hơn khi người ta chú ý đến tình hình Việt Nam, vổn dĩ cũng áp dụng mô hình kinh tế của Trung Quốc với cùng một ý thức hệ. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu câu trả lời qua cuộc trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Những bất ổn chính ở ngay trong nội địa

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau khi tiến hành cải cách 30 năm trước và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO 10 năm trước, Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng rất cao, bình quân là 10% một năm trong mấy chục năm liền. Nhờ vậy mà mấy trăm triệu người thoát ra khỏi tình trạng cùng khốn của thời Mao Trạch Đông trước đấy và xứ này đã có nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới với hy vọng sẽ bắt kịp Hoa Kỳ vào năm 2016 như Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã dự báo.
Nhưng song song với thành tựu kinh tế đó, xã hội xứ này vẫn thường xuyên gặp bất ổn với nhiều vụ biểu tình và thậm chí xung đột của người dân với nhà chức trách địa phương vì rất nhiều lý do khác nhau. Tại sao như vậy là câu hỏi đã được mọi người nêu lên. Phải chăng là vì mâu thuẫn giữa nền tảng kinh tế đã thay đổi ở dưới với thượng tầng chính trị vẫn độc tài độc đảng ở trên? Trong chương trình tuần này, chúng tôi đề nghị là ta sẽ cùng tìm hiểu giải đáp cho vấn nạn ấy vì nhiều người liên tưởng đến trường hợp Việt Nam. Thưa ông, câu trả lời của ông cho câu hỏi ấy là thế nào?

Cung điện Lhasa, Tây Tạng Trung Quốc. AFP
Cung điện Lhasa, Tây Tạng Trung Quốc. AFP


Trước hết, dù thông tin bị bưng bít, người ta vẫn thấy là trong gần hai chục năm liền, năm nào Trung Quốc cũng gặp bất ổn xã hội

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Câu trả lời là chúng ta cần cả một cuốn sách hay rất nhiều chương trình chuyên đề, chứ khó thấy ra câu trả lời ngắn gọn trong một chương trình! Lý do là hồ sơ quá phức tạp cho một quốc gia rộng lớn lại có quá nhiều khác biệt trong một tiến trình chuyển hóa đầy khó khăn.

- Trước hết, dù thông tin bị bưng bít, người ta vẫn thấy là trong gần hai chục năm liền, năm nào Trung Quốc cũng gặp bất ổn xã hội. Dù kinh tế tăng trưởng mạnh như khi vừa gia nhập tổ chức Thương mại WTO hoặc bị nguy cơ suy trầm như trong các năm 2008-2009 hoặc ngay năm nay vì rủi ro lạm phát thì nội loạn vẫn xảy ra. Bất ổn đó thể hiện dưới nhiều mặt vì sự bất mãn của dân chúng về mọi loại vấn đề, mà lại có chiếu hướng tăng chứ không giảm. Đó là ta căn cứ trên cách đếm những vụ biểu tình đông người của các chuyên gia và học giả Trung Quốc, và nhất là việc lãnh đạo xứ này đã gia tăng ngân sách và quân số về bảo vệ an ninh nội địa còn cao hơn ngân sách quốc phòng!

Vũ Hoàng: Một cách cụ thể để suy ra toàn bộ hồ sơ về nội an của Trung Quốc như ông nói thì ai là những người tham gia các vụ biểu tình này? Thành phần nông dân bị cướp đất hay những người thất nghiệp? Tuổi trẻ khát khao thay đổi và thấy bất an với tương lai trước mắt hay những người bất mãn về nạn bất công xã hội? Họ là những ai mà lại không hài lòng về những thành tựu kinh tế làm cả thế giới kinh ngạc và khâm phục?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là thời nào và trong mọi xã hội thì vẫn có người không hài lòng và phản đối qua nhiều cách khác nhau. Nhưng trường hợp của Trung Quốc lại đáng chú ý chính là vì những thành tích kinh tế trên bề mặt của họ. Vì vậy mà đột biến chính trị vẫn có thể xảy ra, cũng bất ngờ như sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1989, như khủng hoảng chính trị tại Đông Á mười năm sau, hoặc những gì chúng ta đang chứng kiến tại Bắc Phi và Trung Đông trong thế giới Á Rập Hồi giáo.

Nguy cơ cuộc đột biến chính trị bất ngờ

Vũ Hoàng: Ông cho rằng đột biến chình trị hay khủng hoảng cũng có thể bất ngờ xảy ra cho Trung Quốc. Thế thì trong "cái riêng" của Trung Quốc, có những hiện tượng phản kháng nào khả dĩ gọi là "chung" mà người ta đã thấy trong các xã hội kia?

Cảnh sát chống bạo động luôn luôn ứng trực. AFP
Cảnh sát chống bạo động luôn luôn ứng trực. AFP

"Có những vấn đề cơ cấu trong nền kinh tế Trung Quốc đã gây ra tình trạng phát triển không liên tục, không cân bằng, không phối hợp và không bền vững".

Thủ tướng Ôn Gia Bảo 2007


Nguyễn Xuân Nghĩa: - Về Trung Quốc, ta thấy một số đặc điểm trong không gian xã hội của họ:

- Trước kia là nông dân và thành phần bần cùng tại thôn quê hoặc một số công nhân trong các doanh nghiệp ở thành thị. Phản ứng của họ lập tức bị khoanh vùng và tiêu diệt mà không lan qua nơi khác. Sau này, phong trào nổi loạn lại xuất phát ở các đô thị, trong thành phần ta có thể gọi là trung lưu có tiền, vì những lý do cũng khác với nông dân. Song song, và từ nhiều năm nay, các sắc tộc thiểu số người Hồi giáo, dân Mông Cổ hay người Tây Tạng cũng nổi lên đòi quyền bình đẳng hay tự trị trong các khu vực sinh hoạt bị phong toả của họ. Gần đây hơn là sự tham gia của tuổi trẻ với phương tiện truyền đạt hiện đại hơn, đó là mạng lưới Internet.

- Về lý do, trước kia, người ta khiếu kiện và biểu tình phản đối vì bị cướp đất, giãn dân mà không có đền bù thoả đáng. Sau đấy, người ta biểu tình vì mất việc, lương thấp và thiếu an sinh xã hội, Sau này, người ta biểu tình tại thành phố vì môi sinh bị xâm hại, địa phương bị thiên tai mà không được cấp cứu hoặc vì thiếu vệ sinh về thực phẩm hay sự an toàn cho dân cư, về nạn tham nhũng và cường hào ác bá trong khu vực sinh hoạt của họ.... Chúng ta thấy sự chuyển dịch ngày càng cao hơn về thành phần xã hội và càng rộng hơn về địa dư và yêu cầu.

Vũ Hoàng: Đó là những nét đặc thù của Trung Quốc mà người ta có thể ít thấy tại Trung Đông chẳng hạn. Thế còn về cái nét chung mà nhiều xã hội hay quốc gia khác đã bị trước khi tan rã?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhìn trên toàn cảnh, ta thấy ra cái chung giữa những cái riêng ấy, tức là nguyên nhân căn bản nhất. Đó là sự bất mãn về hệ thống cai trị thiếu công minh, giới chức hữu trách thiếu trách nhiệm và nền tảng luật lệ hoặc "pháp quyền nhà nước" không được chính viên chức nhà nước tôn trọng mà còn được họ tùy tiện diễn giải vì chẳng có chuẩn mực thống nhất.


Trụ sở Google ở Bắc Kinh
Trụ sở Google ở Bắc Kinh. AFP

Cái đặc thù của Trung Quốc, và có lẽ cũng của Việt Nam, là người ta có thấy ra sự bất bình đẳng trong cuộc đua nhưng thật ra không bất mãn về tình trạng ấy
- Chính Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã tóm lược tình trạng này một cách xin gọi là sáng suốt nhất. Ông ta phát biểu rằng "Có những vấn đề cơ cấu trong nền kinh tế Trung Quốc đã gây ra tình trạng phát triển không liên tục, không cân bằng, không phối hợp và không bền vững". Tôi gọi đó là lý luận "tứ bất", bất liên tục, bất quân bình, bất phối hợp và cơ bản là bất trắc!

- Thật ra, đây là lý luận phê phán hệ thống chính trị chứ không chỉ nói về cơ cấu hay chiến lược kinh tế. Lý do là Tổng lý Ôn Gia Bảo nói như vậy từ Tháng Ba năm 2007, bốn năm sau khi ông cầm đầu Quốc vụ viện. Ngày nay, ông chỉ còn hơn một năm là mãn nhiệm sau hai nhiệm kỳ Thủ tướng mà lãnh đạo chưa giải quyết được và đành chuyển cái tứ bất này cho thế hệ lãnh đạo nối tiếp cho đến ngày đột biến.

Vũ Hoàng: Khi nói đến sự bất toàn trong hệ thống chính trị Trung Quốc, chúng tôi xin nêu ngay câu hỏi. Có phải là vì xứ này đã muốn phát triển kinh tế thị trường nên trong tiến trình phát triển họ đã gặp một hiện tượng chung là bất bình đẳng vì hố sâu giàu nghèo đã lan rộng chăng?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Câu hỏi này rất hay và nó làm nổi bật cái đặc thù của Trung Quốc.

- Sau 30 năm lầm than thời Mao, xã hội Trung Quốc tăng trưởng cao hơn nhưng cũng mở rộng khoảng cách giàu nghèo giữa các thành phần dân chúng và khoảng cách ấy có cao hơn nhiều xã hội khác tại Đông Á khi tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá để hiện đại hoá. Nôm na là sau khi bị cào bằng và đói khổ như nhau, bỗng dưng người dân thấy mở ra nhiều cơ hội cải tiến cuộc sống và họ lao vào cuộc đua ấy.

- Cái đặc thù của Trung Quốc, và có lẽ cũng của Việt Nam, là người ta có thấy ra sự bất bình đẳng trong cuộc đua nhưng thật ra không bất mãn về tình trạng ấy. Họ mắm môi luồn lách để thăng tiến cho kịp với các thành phần ở trên và cho rằng đó là do địa dư hình thể, do quan hệ kinh tế chính trị, thậm chí là do thân tộc có móc nối với quan chức.
Giai cấp giàu nghèo có khoảng cách quá xa. AFP
Giai cấp giàu nghèo có khoảng cách quá xa. AFP

Nhưng, nếu không bất mãn vì sự bất bình đẳng trong xã hội khiến nhiều người làm giàu rất mau, người ta lại khó chịu về nạn bất công trong tiến trình giải quyết các vấn đề của đời sống.

- Nhưng, nếu không bất mãn vì sự bất bình đẳng trong xã hội khiến nhiều người làm giàu rất mau, người ta lại khó chịu về nạn bất công trong tiến trình giải quyết các vấn đề của đời sống. Tức là sau khi chấp nhận tình trạng bất bình đẳng và cố leo lên bậc thang cao hơn, người ta bất mãn về phương thức thi hành luật lệ đầy bất công khiến họ khó leo lên bậc thang ở trên. Mà nói đến luật lệ, tức là luật và lệ, ta nhìn ra yếu tố then chốt của hệ thống chính trị.

Vũ Hoàng: Ông vừa nêu ra một nhận xét rất nghiêm trọng vì hàm ý là người ta chỉ bất mãn khi là nạn nhân của bất công, chứ nếu có cơ hội thăng tiến trong hoàn cảnh bất bình đẳng ấy thì sẽ im. Có phải như vậy không?

Nguyễn Xuân Nghĩa:- Thưa đúng như vậy và đấy là một đặc thù lạc hậu về văn hóa vì mặc nhiên duy trì sự tồn tại của hệ thống chính trị bất công tại Trung Quốc và cả Việt Nam. Nhưng cũng vì vậy nó lại làm chế độ không cải tiến vì tưởng là sẽ tồn tại được nhờ khai thác tánh xấu của con người. Và vì không cải tiến, hệ thống chính trị ấy không giải quyết được các vấn đề kinh tế và xã hội nên tích lũy sức ép của khủng hoảng và có thể bị đột biến bất ngờ.

Vũ Hoàng: Trong mạch suy nghĩ ấy và nhất là khi ông nhắc đến việc Trung Quốc được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đúng 10 năm trước, xin hỏi ông rằng khi mở cửa cho xứ này hội nhập vào kinh tế thị trường của toàn cầu, người ta thầm mong rằng sự cải thiện kinh tế ở dưới sẽ làm thay đổi chính trị ở trên. Kết quả hình như lại không được như vậy, có phải không?


Người ta hiểu lầm rằng nếu bao tử căng hơn sẽ tất nhiên làm cho cái đầu được thông thoáng hơn. Hoặc nói theo văn hoá Á Đông thì "phú quý sẽ sinh lễ nghĩa", khi có mức sống cao hơn người ta sẽ hành xử văn minh hơn.

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng đây là một sự hiểu lầm vĩ đại nhất của nhân loại trong hậu bán thế kỷ 20 và là một cách trả thù muộn màng của Karl Marx! Người ta hiểu lầm rằng nếu bao tử căng hơn sẽ tất nhiên làm cho cái đầu được thông thoáng hơn. Hoặc nói theo văn hoá Á Đông thì "phú quý sẽ sinh lễ nghĩa", khi có mức sống cao hơn người ta sẽ hành xử văn minh hơn. Khi Trung Quốc chuyển hóa theo kinh tế thị trường thì sẽ tiệm tiến thay đổi hình thái cai trị bên trong cho dân chủ hơn và đối xử với bên ngoài một cách ôn hoà và trách nhiệm hơn.

- Sự thật lại không như vậy vì bao tử không sai khiến cái đầu. Ngược lại, chính là cái đầu phải thay đổi tư duy và tổ chức để cải thiện cuộc sống người dân về cả lượng lẫn phẩm.

- Những thí dụ chứng minh là Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức WTO mà thường xuyên vi phạm quy định của tổ chức này để trục lợi bất chính. Ngồi ghế thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Bắc Kinh bỏ phiếu trong tinh thần vô trách nhiệm vì bao che các chế độ hung đồ để bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình trong khi gây ô nhiễm nhiều mặt cho cả thế giới, về môi sinh lẫn an ninh. Khi có thêm sức mạnh kinh tế nhờ một chiến lược lệch lạc, họ dùng sức mạnh đó để khuynh đảo và ức chế xứ khác trong khu vực.

- Ở bên trong, chế độ không cải tiến về chính trị vì tin rằng mọi sự bất mãn đều thu gọn vào cấp chính quyền địa phương chứ thần dân không hề oán thán trung ương tại Bắc Kinh hay các lãnh tụ trong Thường vụ Bộ Chính trị của đảng. Thế giới có thể khó – khó chứ chưa hẳn là không – ngăn ngừa được động thái hung đồ của Trung Quốc, nhưng lãnh đạo xứ này cũng không thể ngăn ngừa được nguy cơ động loạn bùng nổ từ bên trong.

Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối thưa ông, lãnh đạo Trung Quốc có ý thức được nguy cơ đó và đã nói đến việc thay đổi chiến lược và chú trọng đến phẩm hơn là lượng. Liệu họ có thành công chăng, nếu hoàn tất xong Đại hội đảng khóa 18 vào mùa Thu năm tới? Cụ thể thì về kinh tế, họ phải làm những gì?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Ai cũng biết là họ phải nâng mức tiêu thụ của thị trường nội địa để thay thế đầu máy kinh tế hiện nay là đầu tư và xuất khẩu. Chính họ cũng biết là chỉ có thể giải quyết nạn thất nghiệp một cách cơ bản khi mở rộng khu vực dịch vụ thay vì chỉ chú trọng đến khu vực chế biến. Và khu vực dịch vụ cùng giải pháp thị trường nội địa là hai mặt của cùng một chiến lược và có hy vọng tạo ra ổn định xã hội hầu đẩy lui nguy cơ khủng hoảng chính trị.

- Nhưng việc chuyển hoá ấy lập tức đe dọa quyền lợi của nhiều địa phương, và nhất là đụng vào quyền lợi của hệ thống thân tộc là gia đình thân nhân các đảng viên cán bộ từ trên xuống dưới. Từ năm 2003, thế hệ lãnh đạo thứ tư đã thấy vậy và muốn sửa sai mà không xong. Thế hệ thứ năm sẽ lên lãnh đạo vào năm 2013 cũng thế thôi vì chính họ cũng nằm trong mạng lưới tư bản thân tộc ấy. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sản sinh ra hình thái tư bản không phải của nhà nước theo kiểu Lenin vì dù sao "tư bản nhà nước" còn có sự vận hành hợp lý của nó. Đây là chủ nghĩa tư bản thân tộc của một đảng độc quyền, nó có thể xảy ra trong mọi xã hội nhưng lại được củng cố bởi đặc tính văn hoá Á châu là một người làm quan cả họ được nhờ. Vì vậy nó cưỡng chống sự thay đổi và ru ngủ người dân bằng ảo giác về một cường quốc của tộc Hán. Vì cưỡng chống sự thay đổi họ có chỉ có thể thay đổi trong khủng hoảng là điều thật ra không ai muốn cả.

Vũ Hoàng: Xin trân trọng cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Xé Nước Tầu Làm Năm Mảnh

2011-08-18
Nguyễn Xuân Nghĩa - Việt Báo 20110818
Những kịch bản về... "khi nước Tầu có loạn"....

"Cách mạng", trăm năm trước...

Sau khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào "xông đất" Hoa Kỳ vào đầu năm nay, ngày 25 Tháng Hai vừa qua, một số giới chức Hoa Kỳ đã có một phiên họp nguyên ngày về tình trạng nội loạn của Trung Quốc - và về những hậu quả cho Hoa Kỳ....


Phiên họp này chẳng có gì là "nội bộ" hay "bí mật" nhưng lại kết thúc với phần vấn đáp rất lạ.

Sau một ngày chia làm hai phần nghe năm học giả và chuyên gia Mỹ về Trung Quốc trình bày nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội, chính trị hoặc văn hoá của tình trạng nội loạn tại Trung Quốc - và những bài toán nan giải cho lãnh đạo Bắc Kinh - các giới chức Hoa Kỳ bước qua phần hỏi đáp.

Trong phần hội luận bàn tròn ấy, có nhiều người đã nêu câu hỏi với các chuyên gia. Xin tóm lược lại như sau cho dễ đọc....


***


Thưa quý vị, hơn hai chục năm trước, chúng ta đã bị bất ngờ khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Năm nay, chúng ta lại bị bất ngờ khi Trung Đông có biến. Căn cứ trên những phân tách và trao đổi từ buối sáng cho đến trưa nay của quý vị học giả về những chuyện gì đang xảy ra tại Trung Quốc, có lẽ ta cần tự hỏi: Liệu mình có bị bất ngờ lẫn nữa không nếu như Trung Quốc bị khủng hoảng?

Nôm na là chuyện gì sẽ xảy nếu có "thay đổi chế độ tại Trung Quốc"?

Cử tọa thảo luận và định nghĩa về kịch bản rợn người này. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể mất quyền, Quân đội có khi đứng lên gồm thâu thiên hạ về một mối. Nhưng, biết đâu, đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn tồn tại mà thành nhiều mảnh, mỗi mảnh hùng cứ một phương với tài nguyên nhân lực và kinh tế của mình?

Trong ngần ấy hoàn cảnh bất ngờ đó, Hoa Kỳ phải tính sao? Khi ấy, những câu hỏi đáp mới mở ra nhiếu kích thước mới... về Hoa Kỳ.

Vì có người phát biểu như sau.

Thưa quý vị, chúng ta cũng có hệ thống học bổng để giúp tuổi trẻ Trung Quốc học hỏi về thế giới bên ngoài và có cái nhìn thông thoáng hơn về nhiều khía cạnh. Nhưng dường như chúng ta tại lười biếng phó thác việc đề cử và tuyển chọn cho chính quyền Trung Quốc. Cho nên những sinh viên được đón nhận không nhất thiết là thành phần dân sự của xã hội ở bên ngoài hệ thống chính trị hay quan hệ thân tộc của họ. Bây giờ, thế hệ trẻ ấy đã trưởng thành và bắt đầu có vị trí trong xã hội Trung Quốc. Liệu họ đã có thể đảm đương trách nhiệm và là thế hệ sẽ thay thế sau này chăng? Có cách gì liên lạc với họ không?

Cuộc thảo luận hào hứng xoay về một vấn đề xa vời mà bỗng trở thành cấp bách: nếu Quân đội Trung Quốc đứng lên thay thế vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản, chuyện gì sẽ xảy ra?


***


Từ nhiều năm nay, Hoa Kỳ đã theo đuổi chánh sách kết ước – engagement – là chủ động hợp tác để giúp Trung Quốc chuyển hoá sang chế độ dân chủ nhờ bành trướng vai trò của xã hội dân sự, phát huy nền móng pháp quyền và tạo dựng sự tin cậy trong xã hội. Hình như là những nỗ lực ấy không đem lại kết quả, có thể vì mình chỉ chú ý đến bộ máy đảng và nhà nước mà có người cho là sẽ khó tồn tại sau đợt chuyển quyền vào năm tới.

Như vậy, khi hữu sự, Hoa Kỳ sẽ nói chuyện với ai?

Ta có biết những thành phần này là ai không, và đã liên lạc với họ chưa? Hay là sẽ như tại Ai Cập, để chính quyền Ai Cập quyết định lấy? Cũng thế, cho đến nay, chúng ta chỉ tập trung chú ý vào vùng duyên hải trong khi đa số diện tích còn lại là nơi sinh sống của các sắc tộc thiểu số, thí dụ như Tân Cương hay Tây Tạng.

Nếu chúng ta lại sai lầm trong chánh sách kết ước của mình và bị bất ngờ thì sẽ làm gì khi hệ thống chính trị của Trung Quốc bị tan rã?


***


Trong phần thảo luận, có nhiều người nêu ý kiến là Trung Quốc sẽ không chuyển hoá sang chế độ dân chủ. Nếu có đột biến rất nhanh thì đấy là do Quân đội. Từ hàng tướng lãnh sẽ có người bước ra lãnh đạo.

Rút kinh nghiệm từ Bắc Phi, chúng ta có thể nêu câu hỏi, lãnh đạo quân đội ấy gồm có những ai? Trong nhiều năm qua, chúng ta cố gắng đối thoại về quân sự và xây dựng quan hệ với các tướng lãnh Trung Quốc qua nhiều lần gặp gỡ trao đổi. Chúng ta có điện thoại riêng hay điện thư của các tướng lãnh ấy không, để nếu cần thì còn liên lạc và hỏi han?

Một giả thuyết thứ hai, Trung Quốc có thể rơi vào hấp lực cũ của lịch sử, là tan thành hai mảnh kinh tế tại hai khu vực Nam Bắc. Thậm chí ba mảnh nếu kể cả các tỉnh miền Tây. Có khi còn nhiều hơn nữa.

Có người nêu ngược vấn đề: thật ra, đảng Cộng sản Trung Quốc đã thành công khi nuôi dưỡng nỗi sợ động loạn trong tâm tư người dân và tiêu diệt mọi giải pháp thay thế. Vì vậy khi đảng bị khủng hoảng, chưa chắc là các địa phương đã có người đứng lên giành lấy quyền bính.

Nhưng, đã nói về chuyện bất lường thì cũng cần nhìn lại Trung Quốc.

Trung Quốc không có một khối nhất thống như bên ngoài lầm tưởng, Và "phép vua thua lệ làng", "quan trên ở xa bản nha thì gần", "Hoàng đế thiết triều ở Bắc Kinh, nhưng Bắc Kinh lại ở rất xa".... là những quy luật thực tế của xã hội và chính trị Trung Quốc. Biết đâu chừng, nhiều thế lực của đảng ở tại các địa phương sẽ trở lại trò cát cứ đã từng thấy trong lịch sử xứ này?


***
\
Câu chuyện trên không là một giai thoại.

Năm 2000, Chính quyền Bill Clinton đã tháo gỡ một rào cản là quy chế "tối huệ quốc" – quan hệ ngoại thương bình thường và vĩnh viễn PNTR – cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Mục tiêu là kết ước và hội nhập để giúp Trung Quốc chuyển hóa một cách hòa bình sang chế độ dân chủ chính trị nhờ tự do kinh tế. Nhưng Quốc hội Hoa Kỳ khi ấy cũng đã thủ thế và ban hành đạo luật thành lập một cơ quan có nhiệm vụ duyệt xét sự chuyển hoá này.

Xin sơ lược về Hội đồng Duyệt xét Quan hệ Mỹ-Hoa về Kinh tế và An ninh (United States-China Economic and Security Review Commission, viết tắt là USCC). Hội đồng có nhiệm vụ nghiên cứu và phúc trình lên Chủ tịch Thượng viện và Hạ viện về tình hình kinh tế và an ninh lẫn các đòn phép của Trung Quốc để thẩm định xem những gì có thể đe doạ quyền lợi và an ninh của Hoa Kỳ. Do lãnh đạo của hai đảng tại hai viện, Hội đồng quy tụ nhiều chuyên gia về Trung Quốc của Hoa Kỳ và mời các học giả hoặc giới hữu trách Mỹ về kinh tế, tài chánh, ngoại giao, an ninh, v.v, điều trần về rất nhiều khía cạnh của Trung Quốc.

Hàng năm, Hội đồng vẫn đúc kết các nhận định và kết luận để trình bày lên Quốc hội những đề nghị cụ thể trong đối sách với Trung Quốc. Việc điều trần, thảo luận và báo cáo đều được công khai hoá. Việc các cơ quan hữu trách tiến hành những quyết định như thế nào thì có lẽ thuộc vào một diện khác!

Hôm 25 Tháng Hai, Hội đồng thảo luận về cả trăm khía cạnh khác nhau về tình trạng nội loạn và nguy cơ khủng hoảng của Trung Quốc. Và cho rằng Hoa Kỳ không nên lại bị bất ngờ nữa.

Một điều bất ngờ là giới hữu trách trong Hội đồng đã thảo luận về sự sụp đổ của Trung Quốc! Của đảng Cộng sản hay hệ thống chính trị? Của nền kinh tế nhiều phần sẽ bị suy trầm và từ đó gây ra động loạn, v.v....

Xuyên qua đó, những người lãng mạn đã có thể tưởng tượng đến một kịch bản, hay một âm mưu của Hoa Kỳ, nhằm xé Trung Quốc làm năm mảnh! Chuyện ấy có đúng hay không thì chúng ta chưa thể biết mà chỉ có thể bình cho vui. Duy có một điều đáng chú ý là người Mỹ đã bàn đến chuyện "khi nước Tầu có loạn".... Mà lại còn mời những người am hiểu đến bàn công khai nữa.

Nếu nhớ đến chữ "lộng giả thành chân", ta có thể kết luận: "nghi quá!...
__._,_.___

.
__,_._,___




30/08 THỜI SỰ VIỆT NAM

LHQ: Nguồn Nước VN 
STOCKHOLM – Tình hình kém vệ sinh đã làm thất thoát 9 tỉ đôla, tức 2% tổng sản lượng quốc dân của Cam Bốt, Indonesia, Phi Luật Tân và Việt Nam, theo bản phúc trình Kinh Tế Xanh phổ biến trong diễn đàn World Water Week tại Stockholm.

Achim Steiner, Phó Tổng Thư Ký LHQ và là Tổng Giám Đốc cơ quan LHQ về môi sinh, nói, "Tăng nguồn nước sạch và tăng dịch vụ vệ sinh là một hòn đá góc để thiết lập một xã hội sử dụng hiệu quả tài nguyên."

Ông nói, nếu không sử dụng nguồn nước hiệu quả, nhu cầu nước sẽ vượt qua khả năng cung cấp tới 40% vào năm 2030.

Bản phúc trình cũng nói rằng, trong một thế giới nơi có hơn 70% lượng nước toàn cầu dùng cho nông nghiệp, sẽ cần tới kỹ thuật năng lượng sinh hóa để tránh tăng thêm áp lực hiện hữu vào tài nguyên nước.

Mua Tàu Cả Chục Triệu Đôla Giấy Tờ Mờ Ám, Đưa Về Nằm Ụ; Vụ nằm ụ 3 chiếc tàu Vinalines bị lên báo, bài viết lập tức phải gỡ ra

HANO
I -- Đốt tiền cả trăm triệu đô là chức năng của các công ty quốc doanh. Tuy nhiên hành vi đốt tiền rất mờ ám tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) hiển nhiên là một cách để các cán bộ chia tiền.

Báo Đất Việt vừa đăng bài viết nhan đề "Lãng phí hàng nghìn tỷ đồng tại Vinalines" đã ngay lập tức bị gỡ bài này xuống liền, sau khi có dư luận từ cấp cao nhà nước như muốn ém các thông tin này. Tuy nhiên, bài này đã kịp đưa lên blog Dân Làm Báo.

Các điển hình đốt tiền mờ ám được báo Đất Việt kể ra là:

-- Tốn 400 tỷ đồng (19.2 triệu đôla Mỹ) để đóng tàu Sông Gianh có tải trọng 10.900 DWT (tấn trọng tải), chiều dài 183 m, rộng 25 m và chiều cao mạn 12 m, có thể chở được 38-40 sà lan con, trọng tải 200 DWT mỗi chiếc, được bàn giao cho Công ty Vận tải biển viễn dương Vinashinlines thuộc Vinalines từ ngày 10.2.2008 với tổng chi phí đóng tàu khoảng 400 tỷ đồng, tức 19.2 triệu đôla Mỹ.

Báo này kể thêm: 

"Sau đó, tàu Sông Gianh chỉ chạy thử chuyến đầu tiên chở than từ Quảng Ninh vào Sài Gòn, thu được gần 1,8 tỷ đồng, nhưng tiền bỏ ra để chi phí phục vụ cho chuyến hàng này là hơn 4 tỷ đồng. Đây cũng là chuyến hàng duy nhất từ khi con tàu được đưa vào khai thác đến nay."

Có nghĩa là, đóng tàu 19.2 triệu đôla Mỹ chỉ để chạy có một lần biểu diễn. Từ đó tới nay, tàu Sông Gianh được cho nằm ụ ở phía bờ Đồng Nai khu vực ngã 3 sông Sài Gòn, với "Màu sơn xanh của vỏ tàu đã bạc thếch, khoảng hơn 20 sà lan nhỏ được "đeo" quanh tàu."

-- Điển hình đốt tiền thứ 2 là tàu Vinashin Atlantic (chuyên chở dầu, tải trọng gần 150.000 DWT, được mua năm 2007, giá gần 910 tỉ đồng), đang nằm ngoài phao số 0, cách bờ biển Vũng Tàu gần 20 km. Số tiền 910 tỉ đồng là tương đương 43.68 triệu đôla Mỹ.

Tàu này được báo Đất Việt mô tả là, "...chúng tôi tiếp cận được con tàu đồ sộ dài gần 300 m, cao hơn 20 m. Vỏ tàu nơi giáp nước biển bị lớp hà bám dày đặc, dây neo nhiều chỗ bị hoen rỉ."

Vậy rồi quan chức báo cáo ra sao? Bản tin ghi rằng:

"...Nhưng báo cáo của ông Nguyễn Cảnh Việt – Tổng giám đốc Vinalines – với Bộ Giao thông Vận tải ngày 18/2, lại rất khả quan: "Các tàu Vinashin Glory, Vinashin Atlantic, Vinashin Eagle đã hoàn thành các mục sửa chữa nhỏ tại Việt Nam và dự kiến sẽ đưa vào hoạt động vào cuối tháng 2. Tàu Sông Gianh đang được khách hàng có nhu cầu khảo sát, thuê lại". Vậy mà đến nay đã hơn nửa năm, những tàu này vẫn phải "đắp chiếu" không đưa vào hoạt động..."

-- Điển hình thứ 3 là vụ được mô tả là "Dấu hiệu bất thường của thương vụ 37 triệu USD."

Trước tiên là mua hớ, vì giá thị trường lúc đó lẽ ra là 27 triệu đôla nhưng VN lại mau tới 37 triệu đôla, sau đó lại bí ẩn đưa tàu từ quốc tịch Panama sang quốc tịch Singapore rồi mới chuyển sang quốc tịch Việt Nam. Có nghĩa là xóa sạch các dấu vết giao dịch khả nghi trước khi về VN, mà tiền mua không liên hệ gì tới Singapore.

Báo nhà nươc nói, tàu Nord Brave được VN mua từ tháng 10-2010, và bây giờ nằm ụ rồi.

Bản tin viết:

"Khoảng tháng 10/2010, Vinalines đàm phán và mua tàu Nord Brave, trọng tải 52.529 DWT (tấn trọng tải) do Nhật Bản đóng năm 2007, đăng kiểm DNV ID 31180, IMO No 9405459, với giá 37 triệu USD. Theo nhiều chuyên gia hàng hải, việc Vinalines mua tàu Nord Brave với giá trên được xem như thành công lớn của… người bán tàu....

...giá tàu Nord Brave tại thời điểm đó trên thị trường chỉ khoảng 27,07 triệu USD. Nhưng chẳng hiểu vì sao Vinalines lại "hào phóng" bỏ ra 37 triệu USD để mua con tàu này..."

Tình hình chuyển quốc tịch còn khả nghi nữa: 

"Theo thông lệ quốc tế, đáng lẽ Nord Brave (lúc này đang mang quốc tịch Panama) sẽ phải được chuyển đổi thẳng từ quốc tịch Panama sang quốc tịch Việt Nam. Thế nhưng, không hiểu vì sao con tàu này lại được chuyển sang quốc tịch Singapore với hô hiệu 9V8962 (tháng 1.2011) rồi mới được đổi thành quốc tịch Việt Nam với hô hiệu 3WBV9 và được đổi tên là Vinalines Brave. Một chuyên gia về hàng hải phân tích mỗi lần chuyển đổi quốc tịch cho tàu tốn rất nhiều chi phí và thủ tục khá phức tạp. Vì sao tàu Nord Brave được mua giá cao như thế và phải chuyển qua quốc tịch Singapore rồi mới được chuyển sang quốc tịch Việt Nam?"

Bản tin ngay lập tức đã bị gỡ bỏ.



http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/HV_01.gif






.
__,_._,___
----- Forwarded Message -----
From: Tran Ho <TranHo1@yahoo.com>
To: vbHouston dalat <vobihouston@yahoogroups.com>; chinhnghia Viet <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>; Huyet Hoa <HUYETHOA@yahoogroups.com>
Sent: Tuesday, August 30, 2011 10:43 PM
Subject: [HUYET-HOA] THỜI SỰ VIỆT NAM






30/08 Vai trò của Nhật Bản trong vấn đề Biển Đông



EmailInPDF.
Bài viết của tác giả Trang Ngọc Hoa, đăng trên trang trang mạng “Viện Nghiên cứu các Vấn đề Quốc tế Trung Quốc – China Institute of International studies” đã nêu ra một số đánh giá và phân tích của phía Trung Quốc về lợi ích, vai trò và chính sách của Nhật Bản trong vấn đề Biển Đông.
Năm 2010, sau khi Hoa Kỳ bày tỏ sự “quan tâm” xoay quanh vấn đề Biển Đông đối với Trung Quốc, Nhật Bản cũng bắt đầu tích cực có hoạt động can thiệp vào, đồng thời, còn làm khó Trung Quốc trên vấn đề biển Đông hải. Hàng loạt những hành động trên tất nhiên không phải do tình cờ, điều này vốn có quan hệ mật thiết với chính sách hải dương của Nhật Bản bấy lâu nay vẫn nhắm vào Trung Quốc. Trên vấn đề Biển Đông, chính sách tổng thể của Nhật Bản có thể chia ra làm bốn thời kỳ. Thời kỳ đầu sau khi chiến tranh kết thúc, đối với chủ quyền, Nhật bản không có những phản đối khác, tới những năm của thập niên 80 thì bắt đầu đặt quan tâm, sau Chiến tranh lạnh bắt đầu lập kế hoạch để can thiệp, và hiện nay, Nhật Bản đang tích cực can thiệp vào vấn đề. Trọng tâm chiến lược hải dương của Nhật Bản trong tương lai tại Đông hải và Thái Bình Dương sẽ là tiếp tục mở rộng, nhưng cũng sẽ dựa trên nhiều yếu tố quan trọng khác như, an toàn hàng hải của bản thân Nhật bản, kiềm chế thế lực của Trung quốc, ngăn chặn Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, đòi hỏi về hải quyền, và đàm phán với Trung Quốc về chủ quyền tại Đông Hải. Nhật Bản cũng sẽ tiếp tục thực hiện liên minh với Hoa Kỳ, lôi kéo Việt Nam, và còn diễn vai trò của kẻ khoắng nước để dụng hỏa đả công.
I-Vị thế của Biển Đông thay đổi trong chiến lược đối ngoại của Nhật Bản

1-Từ thập niên 80 của thế kỷ 20, Nhật Bản bắt đầu quan tâm chú tới vấn đề Biển Đông.

Nhật Bản là quốc gia thiếu thốn tài nguyên, có tới 95% lượng năng lượng tiêu thụ phải dựa vào nhập khẩu[1], nguồn năng lượng quan trọng nhất là dầu mỏ chủ yếu đi qua tuyến đường vận chuyển trên Biển Đông để tới được Nhật Bản. Ngoài ra, có tới 99% lượng hàng hóa Nhật Bản xuất khẩu đi các nơi cũng dựa vào tuyến đường biển, những sản phẩm hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển tới thị trường Âu châu, những hàng mậu dịch xuất nhập khẩu vào Đông Nam Á và Châu Đại Dương cũng chủ yếu dựa vào tuyến đường qua Biển Đông. Nếu để tầu thuyền chở hàng di chuyển qua Philippine theo tuyến hải trình phía đông, nó sẽ làm cho giá thành hàng hóa thành phẩm của Nhật Bản tăng lên từ 2 đến 5%. Do đó, tuyến đường hàng hải trên Biển Đông được Nhật Bản nhìn nhận đánh giá là “tuyến đường sinh tử” trên biển. Theo đà thực lực kinh tế phát triển nhanh chóng, Nhật Bản ngày càng mở rộng thái độ quan tâm đối với an ninh hàng hải trên tuyến đường Biển Đông.
Đồng thời, thực lực quân sự ngày càng được tăng cường cũng làm cho Nhật Bản chú ý xem xét hơn tới việc bảo vệ an ninh trên tuyến đường biển. Trong thời kỳ đầu lực lượng phòng vệ Nhật Bản mới được thành lập, phạm vi phòng vệ được xác định lấy lãnh thổ làm trung tâm và trải rộng ra trong vòng 200 hải lý, cho tới các vùng eo biển Tsugaru và Tsushima. Những năm của thập niên 80, Hoa kỳ dần thực hiện chiến lược rút gọn trên toàn cầu, đồng thời yêu cầu Nhật Bản đẩy mạnh mở rộng trang bị quân sự, đảm trách nhiều nhiệm vụ tác chiến hơn. Năm 1981, Thủ tướng Nhật Bản Zenko Suzuki viếng thăm Hoa Kỳ, chính thức tiếp nhận yêu cầu của phía chính phủ Mỹ, và cam kết để lực lượng phòng vệ trên biển của Nhật Bản đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ cho tuyến đường 1000 hải lý trên biển. Từ đó đến nay, Nhật Bản chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho “tuyến đường biển tây nam” từ vịnh Osaka tới eo biển bashi, còn tuyến đường biển từ eo biển Bashi xuống phía nam do quân đội Hoa Kỳ đảm trách[2]. Trong “ Sách trắng Quốc phòng Nhật Bản năm 1983” đã lần đầu tiên đưa ra nguyên tắc: “Hàng trăm hải lý xung quanh Nhật Bản, và khoảng 1000 hải lý trên tuyến đường biển trong khu vực là thuộc phạm vi phòng thủ địa lý của Nhật Bản”[3].  
2-Sau Chiến tranh lạnh, Nhật Bản điều chỉnh mục tiêu chiến lược quốc gia, trên mặt chiến lược, từng bước can thiệp vào khu vực Biển Đông.
Sau chiến tranh lạnh, tình hình quốc tế phát sinh nhiều thay đổi sâu sắc. Thực lực kinh tế và quân sự Nhật Bản nhanh chóng được tăng cường, tranh chấp trở thành chính trị, cường quốc về quân sự được khẳng định là mục tiêu chiến lược quốc gia. Đồng thời, từ phía Nhật Bản nhìn lại, sự phát triển nhanh chóng của Trung quốc đã đưa tới cho Nhật Bản một tương lai chịu những áp lực và thách thức, mâu thuẫn Trung - Nhật càng gia tăng. Dưới hoàn cảnh đó, Nhật Bản đã để mắt tới những tranh chấp trên Biển Đông, đồng thời xây dựng luật pháp để thò tay can thiệp vào những vấn đề an ninh liên quan, không ngừng tăng cường mở rộng sức ảnh hưởng tại khu vực này.
Sau khi bùng phát tranh chấp giữa Trung - Phi - Mỹ xung quanh dải đá ngầm Mischief Reef (dải Vành Khăn của VN) năm 1995, Nhật Bản bắt đầu có thái độ khai thác can thiệp trính trị. Trong khi hội đàm giữa những nhà lãnh đạo Nhật Bản và lãnh đạo Trung Quốc, phía Nhật Bản đã liên tiếp bày tỏ ý kiến quan tâm tới quần đảo Trường Sa. Khi tham gia hội nghị Diễn đàn Đông Nam Á lần 2, Ngoại trưởng Nhật Yohey Kono đã đưa ra ý kiến về việc có thể đem vấn đề Biển Đông ra thảo luận trong khuôn khổ của “Diễn đàn khu vực Đông Nam Á”. Nhật Bản kỳ vọng sẽ học hỏi được kinh nghiệm xử lý đối phó với Trung Quốc từ những tranh chấp trên Biển Đông, đồng thời còn muốn dùng những tranh chấp này để khống chế Trung Quốc.
Đọc toàn bộ bản dịch bài viết tại đây
Theo Tạp chí “Nghiên cứu các vấn đề quốc tế”, kỳ số 3, năm 2011)
Người dịch: Đăng Dương– Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông


[1] Điều tra thống kê tài nguyên của Cục Chính sách Công nghiệp và Kinh tế, thuộc Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản.
[2] Báo cáo của Tiểu ban Hợp tác và Phòng vệ trực thuộc Uỷ ban Hiệp định  An ninh và Phòng thủ chung Mỹ Nhật. Bản “Báo cáo Triệu Hòa, ngày 27 tháng 11 năm 1953”.http://www.clearing.mod.go.jp/hakusho_data/1981/w1981_9134.html.
[3] Xem “ Sách trắng Quốc phòng Nhật Bản ”. Bản in năm Triệu Hòa thứ 58http://www.clearing.mod.go.jp/hakusho_data/1983/w1983_03.html