Friday, December 2, 2011

Cách mạng và ba chàng rể nhà họ Vi (kỳ 2): Chàng rể Hồ Đắc Di


Thứ Ba, 23/08/2005, 00:53 (GMT+7)
Sinh viên Hồ Đắc Di ở Paris năm 1925 (người đứng giữa, phía trước)
TT - Giáo sư Hồ Đắc Di sinh năm Canh Tý (1900) trong một danh gia vọng tộc ở cố đô Huế, một dòng họ có tới năm nàng dâu là công chúa, công nữ và có số thượng thư, tổng đốc khó đếm hết.
Bà nội của giáo sư là con gái Tùng Thiện Vương Miên Thẩm; cha là quận công Hồ Đắc Trung; hai người anh ruột là thượng thư, cử nhân nho học Hồ Đắc Khải và tổng đốc, tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm; hai người em trai là kỹ sư khoáng học Hồ Đắc Liên và tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân...
Năm 1918, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa kết thúc, mìn ở Địa Trung Hải còn chưa quét hết, anh thanh niên họ Hồ Đắc lên đường sang Pháp du học.
Là người VN đầu tiên theo học chuyên ngành phẫu thuật, bác sĩ nội trú các bệnh viện Paris, anh bắt đầu có chút tiếng tăm trong giới trí thức thượng lưu Paris và vì là con trai một vị quận công nên anh thường được bạn bè người Pháp gọi là Prince Ho Dac (công tước Hồ Đắc). Hoàng thân Fujita - họa sĩ người Nhật Bản, và công tước Hồ Đắc - nhà y học người An Nam, là hai tài năng trẻ châu Á được báo chí Paris nhắc tới.
Vào những ngày chủ nhật, Hồ Đắc Di thường được cô Ève Curie, con gái thứ hai của Pierre Curie và Marie Curie (hai lần được tặng giải thưởng Nobel về vật lý và hóa học, vào những năm 1903 và 1911), mời đến nhà riêng chơi. Lúc bấy giờ ông Pierre đã mất, bà Marie sống với hai người con gái là Irène và Ève.
Ève Curie là một nữ sinh viên đa cảm, giỏi văn thơ, yêu âm nhạc, ưa trang điểm và rất thích tiếng đàn violon của công tước Hồ Đắc, chàng quí tộc phương Đông thanh tú và dí dỏm, am tường triết học và văn học, nghệ thuật phương Tây. Nhiều năm sau giáo sư Hồ Đắc Di vẫn còn giữ lại bức ảnh chụp trong nhà Marie Curie: Ève ngả mình trên đivăng, mơ màng nghe công tước Hồ Đắc kéo đàn violon.
Đôi khi Ève còn cùng anh song tấu: cô đánh piano, còn anh kéo violon. Về sau Ève kết hôn với Pierre Mendès France, thủ tướng Pháp trong những năm 1954-1955, người lãnh đạo phái đoàn Pháp ký Hiệp định Genève lập lại hòa bình ở Đông Dương...
Năm 1919, tám yêu sách về quyền của các dân tộc do Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị hòa bình Versailles được báo chí Pháp công bố gây tiếng vang rất lớn. Sau này có lần giáo sư Hồ Đắc Di kể lại: “Dạo đó tôi thường lui tới câu lạc bộ sinh viên VN ở số nhà 15 phố Sommerard, khu Latin, Paris.
Sáng chủ nhật hôm ấy, tôi cùng đi với anh bạn Dương Văn Giáo, quê ở Nam kỳ, lúc bấy giờ là luật sư tập sự. Câu lạc bộ có hai phòng: phòng ngoài để sách báo cho sinh viên xem, phòng trong đặt bàn ghế tiếp khách. Nhìn vào phòng trong tôi chợt thấy ba người đang trò chuyện: một ông già có chòm râu đen, một người béo lùn và một người trẻ tuổi, nước da hơi xanh, đôi mắt rất sáng, vóc dáng mảnh khảnh gầy gò. Anh Giáo hỏi tôi:
- Anh có biết ba người kia là ai không?
- Có biết một, người để râu là cụ Phan Châu Trinh.
- Người béo lùn kia là - anh Giáo tiếp lời tôi - luật sư Phan Văn Trường; còn người gầy gầy, xanh xanh là ông Nguyễn Ái Quốc.
Mấy tiếng “Nguyễn Ái Quốc” làm tôi xúc động đến bàng hoàng. Thì ra con người mà tôi hằng nghe bạn bè nhắc đến, con người từng cất cao tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng cho dân tộc VN - một cử chỉ gan dạ khiến mọi người khâm phục - con người ấy đang ngồi trước mặt tôi kia! Và cũng là người “trần thế” như mọi người bình thường, chứ đâu phải là một “trang hiệp sĩ” theo kiểu “Richard trái tim sư tử” như trí tưởng tượng của tôi hằng thêu dệt theo tiểu thuyết Walter Scott!”.
Kể từ hôm ấy, chàng công tước Hồ Đắc thường kín đáo cùng mấy bạn tâm giao đi bán báo Le Paria (Người Cùng Khổ) và báo Việt Nam Hồn.
Năm 1975, sau khi cuộc cải cách ruộng đất đã lùi xa vào dĩ vãng, đất nước đã thống nhất, cụ Vi Văn Định đã 96 tuổi, bà Vi Kim Ngọc - vợ giáo sư Nguyễn Văn Huyên - mới lấy những tấm đồng khắc gia phả bằng chữ Hán mà cụ Vi vẫn cất giấu rất kỹ đem về nhà mình, rồi nhờ dịch sang chữ quốc ngữ. “Cuốn” gia phả bằng đồng ấy từ lâu được gói kín trong một bao vải, nặng phải đến dăm bảy kilôgam! Bấy giờ mọi người trong nhà mới rõ gốc gác họ Vi.
Hóa ra cụ cao tổ Vi Kim Thắng, hiệu Đinh Mật, vốn quê ở xã Vạn Phần, tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, là người Kinh chính gốc! Nhưng vào đời nhà Trần, cụ Thắng được vua Trần giao trọng trách “trấn ải biên cương”, rồi từ đời này sang đời khác con cháu cụ cứ tiếp tục làm quan trên xứ Lạng, do vậy dần dần “Tày hóa”, nói tiếng Tày, mặc quần áo chàm!
Cuốn Lịch sử thổ ty tỉnh Lạng Sơn cho biết: các hậu duệ của cụ Vi Kim Thắng đều được triều đình nhà Trần, nhà Lê, rồi nhà Nguyễn cho “tập tước thổ ty”, nhiều người được phong hàm quận công.
Đến đời cụ Vi Văn Định, nhà cầm quyền thuộc địa mới bày ra kế “điệu hổ ly sơn”, không để cụ “tập tước” làm tổng đốc Lạng Sơn, biết đâu đến một lúc nào đó cụ có thể xưng vua, lập ra “nước Tày - Nùng”! Chúng điều cụ xuống vùng trung du và đồng bằng, giao cho cụ chức tuần phủ Phúc Yên, tuần phủ Hưng Yên, rồi tổng đốc Thái Bình để các quan công sứ Pháp dễ bề “để mắt” tới. 
Sau 13 năm theo học trường y và làm việc tại Bệnh viện Tenon ở Paris, nhà phẫu thuật trẻ tuổi Hồ Đắc Di trở về nước, lòng chứa chan hi vọng đem tài mọn của mình ra thực hiện những lời thề Hippocrate. Nhưng rồi thực tế phũ phàng làm ông thất vọng.
Tại Bệnh viện Huế, nơi ông làm việc, bệnh nhân được chia thành hai loại. Những người “hạ đẳng” bị coi khinh chẳng khác gì súc vật, để nằm vật vã, ngổn ngang, chẳng ai chăm sóc. Thầy thuốc Pháp thường tỏ vẻ ghê tởm người bệnh An Nam và coi ông - một đồng nghiệp của họ - chỉ như kẻ để họ sai khiến mà thôi!
Là nhà phẫu thuật thực thụ đã từng làm việc tại Bệnh viện Tenon nhưng ông chỉ được họ cho làm bác sĩ tập sự, trong khi những người Pháp bất tài mà ai cũng biết thua kém ông cả về bằng cấp cũng như về kinh nghiệm như Lemoine lại là bác sĩ trưởng, Normet là giám đốc y tế Trung kỳ.
Lòng đầy tủi nhục, có lần trông thấy tên Lemoine đã dốt lại còn hống hách, ông giận điên người, vác ghế toan đánh hắn. Sau vụ đó ông bị đổi vào Qui Nhơn.
Ít lâu sau ông tìm đường ra Hà Nội. Vừa trông thấy ông, bác sĩ Vũ Đình Tụng nói ngay:
- Anh ra đây làm gì? Dù là nhà phẫu thuật thực thụ anh cũng sẽ chẳng được người ta cho cầm dao mổ đâu! May lắm chỉ được gây mê!
Lại thêm một lần thất vọng. Nỗi đắng cay làm ông bừng tỉnh, chợt thấy rõ điều mà trước kia ông chỉ mới thấy mơ hồ: chung qui chỉ tại ông là người dân mất nước!
Khi được Le Roy des Barres, hiệu trưởng trường y, mời đến, ông nói thẳng:
- Không cho tôi cầm dao mổ thì tôi dứt khoát không làm!
Có lẽ vì quá thiếu người thạo chuyên môn nên hiệu trưởng đành chấp nhận. Từ đó bác sĩ Di vừa giảng bài bên trường y vừa mổ xẻ ở Bệnh viện Phủ Doãn. Tính đến năm 1945, ông đã công bố 37 công trình nghiên cứu trên các tạp chí y học Pháp ở Paris và Viễn Đông.
Trước thực tài của nhà y học Hồ Đắc Di và cũng để xoa dịu phần nào sự bất bình của các thầy thuốc và sinh viên y khoa người VN thời ấy, chẳng bao lâu trước Cách mạng Tháng Tám, hội đồng giáo sư Trường đại học Y Hà Nội, gồm toàn các giáo sư người Pháp, mới bầu ông làm phó giáo sư, rồi giáo sư.
Kể lại những ngày đầu cách mạng, giáo sư Hồ Đắc Di ghi trong hồi ký: “Năm 1919, mặc dù hoàn toàn chưa có một ý niệm gì về cách mạng VN nhưng tôi vẫn thầm cảm phục hành động yêu nước nồng nhiệt và lòng quả cảm vô song của ông Nguyễn Ái Quốc.
Cho nên, năm 1945, khi được biết phong trào Việt Minh là do ông Nguyễn Ái Quốc sáng lập (nhờ một tờ truyền đơn ai đó lùa qua khe cửa) là tôi yên tâm: Chính nghĩa đây rồi! Độc lập, tự do đây rồi! Và khi được thấy con người mảnh khảnh năm xưa thường lui tới số nhà 15 phố Sommerard, Paris nay tóc đã điểm bạc, lưa thưa chòm râu cằm, cất cao giọng Nghệ đọc Tuyên ngôn độc lập thì niềm tin của tôi càng thêm vững chắc.
Những ngày đầu cách mạng, tình thế nhiều lúc như “nghìn cân treo sợi tóc” khiến tôi không khỏi lo âu. Nhưng rồi tôi được nghe Hồ Chủ tịch nói trong một cuộc mittinh trước Nhà hát lớn sau ngày ký hiệp định sơ bộ: “Hồ Chí Minh này không bao giờ bán nước!”. Thật cảm động đến rơi nước mắt! Câu nói của Người âm vang mãi trong lòng tôi...”.
Chính cuộc đời hi sinh cao cả của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã cảm hóa nhiều người trong dòng họ Hồ Đắc như Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di, Hồ Đắc Liên và con cháu họ đến với chính nghĩa của cách mạng. Con gái của giáo sư Hồ Đắc Di và bà Vi Kim Phú (con gái tổng đốc Vi Văn Định) là Hồ Thể Lan về sau trở thành vụ trưởng Vụ Báo chí và là người phát ngôn của Bộ Ngoại giao nước ta. “Lệnh ái” Hồ Thể Lan kết hôn với người bạn đồng môn là Vũ Khoan, hiện là bí thư Trung ương Đảng, phó thủ tướng Chính phủ…
HÀM CHÂU


No comments:

Post a Comment