Saturday, August 13, 2011

Hậu họa nợ công và bài học từ “lưỡi dao” S&P!



 
  E-mail        Bản để in        Cỡ chữ        Chia sẻ:          Chia sẻ tin lên LinkHay.com
▪  NGUYỄN HOÀI
13/08/2011 16:48 (GMT+7)
 
Diễn biến nợ công Việt Nam trong 5 năm gần nhất (đơn vị: %GDP) - Nguồn: Bộ Tài chính.
Hoành hành ở Hy Lạp và Ireland gần một năm nay, nợ công tràn sang Tây Ban Nha, Italia và đang rình rập Nhật Bản.  

Mỹ - nền kinh tế số 1 thế giới - cũng không thoát khỏi họa nợ công và phải hứng chịu hệ lụy từ việc hạ định mức tín nhiệm của Standard&Poor's (S&P) đối với trái phiếu chính phủ nước này.

Và phải chăng, nợ công ở Mỹ hay châu Âu chính là những “tấm gương xấu” để chúng ta phải tích cực xử lý sớm nợ nần?

Vì sao nguy hiểm?

Các học giả kinh tế trên thế giới quan niệm, khủng hoảng tài chính thường xuất phát từ ba khu vực: khủng hoảng tiền tệ (tỷ giá hối đoái) như từng xảy ra ở Thái Lan năm 1997, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ công.

Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, nhiều năm trở lại đây, nợ công đã trở thành vấn đề nóng bỏng của nền tài chính ở các quốc gia phát triển và mới nổi.

Nợ công tích tụ ngày càng lớn và tập trung chủ yếu ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản ở ngưỡng trên 100% GDP, thậm chí ở Nhật còn trên 200% GDP!

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được châm ngòi từ tín dụng bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ, hoành hành thế giới suốt 3 năm qua tưởng đã tạm yên thì bước sang năm 2011, lại được châm thêm mồi lửa từ khủng hoảng nợ công. Từ đó, bộc lộ những ảnh hưởng mang tầm vóc sâu rộng và nguy hiểm đối với nền tài chính toàn cầu, đến nỗi, nhiều ý kiến cho rằng, thế giới sắp phải đón một “siêu bão” tài chính mới.

Những cuộc cứu trợ khổng lồ mà châu Âu đang áp dụng cho Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha và sắp tới là Tây Ban Nha, Italia cho thấy, khủng hoảng nợ công gây tốn kém chi phí không kém số tiền mà Mỹ phải bỏ ra để xử lý hệ thống tài chính nước này sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua.

Hầu hết các nhà phân tích đều cảnh báo: không nên xem thường khủng hoảng nợ công. Bởi nếu không được phòng ngừa và cứu trợ kịp thời, sẽ nổ  ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và lan truyền nguy hiểm tới chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng thương mại do phần lớn trái phiếu chính phủ phát hành đều được ngân hàng nắm giữ.

Trên thực tế, không chỉ có ngân hàng của Ireland mua trái phiếu Chính phủ nước này mà nhiều ngân hàng của châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… đều mua. Hoặc với trái phiếu Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia cũng vậy. Hơn nữa, do tính chất hoạt động của ngân hàng thương mại là toàn cầu hóa nên khi ngân hàng bị tổn thương, uy tín bị giảm sút, sẽ tác động xấu đến dòng tiền gửi của người dân.

Chuyện của người Mỹ

Đã từ lâu, thế giới quá quen với tình trạng nợ nần của Mỹ. Còn người Mỹ luôn yên tâm rằng, nền tảng kinh tế, thành lũy tài chính hùng mạnh của nước này hoàn toàn miễn dịch với thứ mầm bệnh kia. Họ tự hào về nền tảng kinh tế, khoa học công nghệ và năng suất lao động có thể làm chủ được thị trường tài chính thế giới; coi đó là thứ giá trị bảo hiểm cho đồng tiền của mình, là vật thế chấp đáng tin cậy nhất cho nợ công.

Ông Lê Xuân Nghĩa kể, năm 2006, khi sang thăm Bộ Ngân khố Mỹ (Bộ Tài chính) và thảo luận với họ về vấn đề nợ công, ông tỏ ý lo ngại, nợ công của Mỹ sẽ là vấn đề lớn trong tương lai. Một quan chức phía Mỹ đáp: “Yên tâm, nợ công Mỹ còn chưa đến 100% GDP, Nhật Bản còn nhiều nợ công hơn chúng tôi. Ai cầm trái phiếu Mỹ là cầm vàng”. Quan chức này cũng nhắc lại câu nói nổi tiếng của Alexander Hamilton, Bộ trưởng Bộ Ngân khố đầu tiên của Mỹ, tại vị 1789 - 1795: “Nợ nước Mỹ là vàng”.

Nhưng giờ đây, vấn đề đã khác. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bộc lộ mặt trái không mong muốn của nợ công nước Mỹ và nhiều nước khác. Khi thế giới chưa hết sững sờ về cuộc mặc cả giữa chính phủ và Quốc hội Mỹ nâng trần nợ công lên mức 16,4 nghìn tỷ USD và đổi lại phải cắt giảm chi tiêu 2,1 nghìn tỷ USD trước bờ vực vỡ nợ thì sự đánh tụt trái phiếu dài hạn của hãng xếp hạng tín nhiệm S&P như thể là “lưỡi dao” bổ xuống sự kiêu hãnh quá mức của nước này. Đó còn là hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đối với trung tâm kinh tế, tài chính ở một quốc gia có nền tảng kinh tế vững mạnh bậc nhất toàn cầu.

Và dù không mong muốn, nhưng hành động của S&P đã dẫn đến tâm lý hoang mang hoảng loạn, phải bán đổ, bán tháo trái phiếu chính phủ, vốn được coi là thứ hàng hóa tin cậy hàng đầu.

Đối với những quốc gia sở hữu nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ như Trung Quốc và Nhật Bản mặc dù vẫn lớn tiếng trấn an rằng: “Đó vẫn là công cụ dự trữ quan trọng bậc nhất” nhưng trên thực tế, tỷ trọng trái phiếu Chính phủ Mỹ trong dự trữ quốc gia đã suy giảm rõ rệt để bổ sung thêm vàng, góp phần tạo nên cơn sốt vàng dữ dội nhất trong lịch sử suốt hai tuần qua. Chẳng hạn, Nhật Bản giảm từ 90% xuống 75% - 80%, Brazil giảm từ 90% xuống 81%; Trung Quốc giảm từ 90%  xuống 80%.

Còn  ở thị trường chứng khoán thực sự là thảm họa. Chỉ số Down Jones từ 12.500 điểm tụt xuống dưới 12 nghìn điểm trong vòng mấy ngày; các chỉ số tài chính của châu Á và Âu đều sụt giảm rất mạnh.

Nhiều người nói rằng, cuộc thỏa hiệp giữa Chính phủ Mỹ và Quốc hội đã kết thúc, nhưng đó chưa phải dấu chấm hết cho những bất ổn nội tại ở quốc gia này, mà cội nguồn sâu xa vẫn là nợ công và những chỉ số vĩ mô đang ngày càng xấu thêm. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao, thị trường chứng khoán tiếp tục đình trệ, chỉ số tiêu dùng đã có một giai đoạn khởi sắc nhưng lại bắt đầu tồi tệ. Thách thức lớn nhất đối với nước Mỹ hiện nay là làm thế nào để vừa hạn chế thâm hụt ngân sách, vừa kích thích phục hồi kinh tế.

Ông Trần Trọng Quốc Khanh, Giám đốc Trung tâm Vàng ACB, nói: “Việc Mỹ nâng trần nợ công cũng giống như tình trạng một con bệnh nặng được tiếp thêm viên thuốc bổ  để cố gượng dậy. Điều quan trọng là sau khi nâng trần nợ, Mỹ phải chứng tỏ cho thế giới thấy khả năng phục hồi kinh tế để trả nợ vay trên 16,4 nghìn tỷ USD. Và đó vẫn là dấu hỏi rất lớn, bởi lẽ đến lúc không trả được, không lẽ lại nâng nợ nữa?”.

Trong lịch sử của mình, đã hai lần Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phát hành thêm tiền mua trái phiếu phục vụ chi tiêu ngân sách của chính phủ. Nhiều thông tin cho thấy, có thể FED sẽ làm như vậy thêm một lần nữa nếu như S&P và thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt là các chủ nợ không gia tăng sức ép để FED từ bỏ ý định này.

Nếu FED tiếp tục, USD sẽ mất giá nghiêm trọng, lạm phát tăng thêm, thị trường tài chính sẽ suy sụp thực sự. Dĩ nhiên, cũng có nhà phân tích cho rằng, nếu FED phát hành thêm tiền, sẽ tránh nợ công của Mỹ tăng thêm hay nói cách khác, cả thế giới phải xúm lại lo chuyện nợ nần cho Mỹ thông qua đóng thuế vô hình khi đồng USD mất giá. Hiện tại, vấn đề này còn tùy thuộc vào quan điểm giải quyết vấn đề tài chính sống còn của nước Mỹ của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ như thế nào.

Có  thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công toàn cầu  đang diễn ra ở châu Âu, Mỹ và có  thể sẽ lan tới Nhật Bản. Và rất có  thể, chúng là tiền đề cho một cơn bão tài chính mới diễn ra vào năm 2012.  

Không để nước đến chân!

Khi chứng kiến nước Mỹ sống trong những ngày bên bờ vực vỡ nợ và sự mặc cả nâng trần nợ công cũng như sự kiện S&P đánh tụt hạng trái phiếu chính phủ Mỹ từ AAA xuống AA+, thêm một lần nữa, hồi chuông cảnh báo nợ công lại được gióng lên với Việt Nam.

Điều này càng thêm nóng hổi khi cách đây mấy ngày, tổ chức định mức tín nhiệm Fitch Ratings vừa công bố duy trì mức tín nhiệm nợ công Việt Nam là B+, nhưng cho rằng, họ chưa thấy sự chuyển biến rõ rệt trong việc cắt giảm chi tiêu công, điểm căn bản để xác định điểm nợ công của Việt Nam. Hãng này cũng cho rằng, nợ công Việt Nam vượt ngưỡng 50% GDP là cao hơn mức trung bình 37% đối với hạng B.

Theo nhiều chuyên gia, sự nhìn nhận nghiêm khắc của giới phân tích tài chính trong vấn đề nợ công Việt Nam là xuất phát từ thực tế. Theo Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8% GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%; 2009: 41,9%; 2010: 56,7%. Năm 2011, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) dự kiến nợ công sẽ đạt 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP.

Như  vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình 5%/năm. Với đà tăng này, chỉ cần 8 năm nữa, nợ công Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP.

Nhưng đó là theo cách tính của Việt Nam, còn nếu áp chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì nợ công hiện lên tới 72% GDP. Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nếu theo cách tính này, số nợ công sẽ bị thu hẹp lại khá lớn so với chuẩn WB và IMF.

Từ cuộc khủng hoảng nợ công đang tấn công vào các nước, giới phân tích rút ra mấy điểm đáng lưu ý sau.

Thứ nhất, Mỹ, châu Âu dù sao còn có nền tảng kinh tế vững chắc và năng suất lao động cao, trên cơ sở tiềm lực khoa học công nghệ và nền kinh tế phát triển. Kể cả như vậy nhưng một khi nợ công phát tác tiêu cực thì hậu họa cũng rất khó lường. Trong khi đó, nợ công Việt Nam đang dựa trên khả năng chịu đựng rủi ro tài chính hạn chế của người dân và cùng đó là năng suất lao động thấp, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên và thâm dụng lao động, vốn. Bởi vậy, điều này không thể đảm bảo một tương lai sáng sủa khi nợ công Việt Nam đang chạm ngưỡng an toàn và ngày càng tăng mạnh.

Thứ hai, hiện nay, trong cơ cấu nợ công Việt Nam thì có tới 30% vay nợ nước ngoài và 70% nợ nội địa. Điều đáng lo ngại là nợ nội địa của Chính phủ chủ yếu là trái phiếu mà hệ thống ngân hàng thương mại mua. Bởi trong nhiều trường hợp, khủng hoảng ở khu vực này là tiền đề của khủng hoảng khu vực kia. 

Ví dụ, năm 1997, đầu tiên, Thái Lan lâm vào khủng hoảng tỷ giá dẫn đến khủng hoàng ngân hàng. Hoặc, khủng hoảng ở Nhật Bản trước đây và Ireland đang diễn ra đều xuất phát từ đổ bể bong bóng bất động sản được truyền dẫn tới khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Và khi Chính phủ Ireland oằn mình vay nợ cứu hệ thống ngân hàng trong khi nợ công đang ở mức cao, càng làm cho nền kinh tế lún sâu vào vòng xoáy khủng hoảng.

Thứ ba, trong cơ cấu nợ công, có tới 6 - 7 tỷ USD là nợ ngắn hạn, và nếu đem con số này đặt cạnh dự trữ quốc gia thì đó là một lo ngại không nhỏ.

Thứ tư, hiện nay, nguồn trái phiếu Chính phủ không được hạch toán vào ngân sách mà ở dạng Chính phủ huy động nguồn vốn người dân rồi cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng và một phần nhỏ để đầu tư. Phải thấy rằng, Chính phủ vay lãi trái phiếu 12%, đầu tư gia tăng giá trị vài chục phần trăm/năm thì rất tốt, nhưng nếu chỉ đạt vài ba phần trăm/năm thì là điều rất đáng lưu tâm.

Thứ năm, trong nhiều năm trở lại đây, lạm phát đang trở thành mối đe dọa của nền kinh tế. Nhiều chuyên gia dự báo, lạm phát năm 2011 sẽ không dưới 27% vì 7 tháng qua, lạm phát đã ngấp nghé 20%. Lạm phát làm cho nội tệ yếu đi nhiều so với ngoại tệ. Trong khi trong cơ cấu nợ công, có tới 30% bằng đồng Yên, là ngoại tệ liên tục tăng giá so với USD chứ chưa nói đến VND. Thời gian qua, rất nhiều người lên tiếng trước áp lực rủi ro tỷ giá đối với mặt này, mặt kia nhưng từ góc độ vay nợ, gần như chưa bao giờ nợ công được bảo hiểm rủi ro tỷ giá, dù chỉ là một USD!

Rất nhiều nước trong khu vực chỉ để mức thâm hụt ngân sách kéo dài dăm năm sau đó tìm cách cân bằng và thặng dư. Trong khi ở Việt Nam, thâm hụt ngân sách và thương mại là căn bệnh kinh niên. Rất có thể vì nhiều lý do, Việt Nam phải chấp nhận tình trạng này trong một chu kỳ phát triển nào đó, nhưng Chính phủ cần đặt mục tiêu để giảm gánh nặng nợ công theo lộ trình nhất định thay vì để nợ công tăng năm này qua năm khác.

Ngay từ bây giờ, nếu không xử lý vấn đề nợ công một cách hiệu quả, thì mọi chuyện sẽ trở nên quá muộn.

13/08 Thống nhất quản lý để chống thẩm lậu thuế

07:09 | 13/08/2011
Thời gian qua, một số báo có bài phản ánh việc Hải quan Khu thương mại Lao Bảo “làm khó dân” khi thực hiện kiểm tra phương tiện xe máy đăng ký ở Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo. Trao đổi với PV Báo ĐBND, CỤC TRƯỞNG CỤC HẢI QUAN QUẢNG TRỊ LÊ VĂN TỚI khẳng định, Hải quan Lao Bảo đang thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về chính sách hải quan tại Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo.
- Xin ông cho biết các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo? Tại sao Hải quan Lao Bảo phải áp dụng biện pháp kiểm tra phương tiện xe máy qua cửa khẩu (cổng B), thưa ông? 
- Căn cứ các văn bản pháp luật hải quan áp dụng cho các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh tại Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, hàng hóa, dịch vụ từ nội địa xuất vào đây sẽ được hưởng thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) 0%; hàng hóa, dịch vụ lưu thông trong nội bộ Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo không chịu thuế GTGT; hàng hóa, dịch vụ từ Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đưa vào nội địa phải chịu thuế GTGT. Chính sách ưu đãi này nhằm mục đích khuyến khích đầu tư sản xuất, kinh doanh vào khu vực này.

Nguồn: tgvn.com.vn
Tuy nhiên, thời gian qua, đã có hiện tượng lợi dụng những ưu đãi này để trốn thuế. Từ khi có các chính sách ưu đãi áp dụng cho Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo theo Quyết định 11 (2005) của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, hải quan và các lực lượng chức năng đã đấu tranh phát hiện trên 10 ngàn vụ buôn lậu từ Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo vào nội địa, trị giá hàng trăm tỷ đồng. Hàng hóa từ nội địa đưa vào đây để hưởng thuế suất thuế GTGT 0% rồi tổ chức nhập lậu vào nội địa cũng được các cơ quan chức năng xử lý tịch thu. Riêng mặt hàng xe máy từ năm 2006 đến năm 2010, Chi cục HQKTM Lao Bảo đã mở tờ khai cho 17 nghìn chiếc xe máy từ nội địa đưa vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao, trị giá 150 tỷ đồng. Đến giữa năm 2010, trước tình hình quản lý khó khăn, UBND tỉnh đề nghị và được Chính phủ, Bộ Tài chính đồng ý tạm dừng. Nay theo đề nghị của Quảng Trị, Chính phủ - Bộ Tài chính đồng ý cho tái mở tờ khai xe máy, nhưng trong khi chờ các bộ, ngành Trung ương ban hành văn bản quy định cơ chế quản lý và chế tài xử phạt, nên Tổng cục Hải quan chưa chính thức hướng dẫn chỉ đạo việc mở tờ khai cho xe máy từ nội địa nhập vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo.
- Để phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và thẩm lậu thuế đối với mặt hàng xe máy xuất vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo cần triển khai các biện pháp gì, thưa ông?
- Đối với ô tô nhập khẩu miễn thuế vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo nhằm phục vụ yêu cầu vận tải, lưu thông trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, trong trường hợp muốn vào nội địa thì Bộ Công an đã có Thông tư quy định cụ thể. Riêng với xe máy từ nội địa đưa vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo được miễn thuế GTGT, thì chưa có quy định được đưa vào nội địa. Tạm thời chúng tôi chưa mở tờ khai xe máy xuất khẩu từ nội địa vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo để chờ các bộ, ngành liên quan có quy định cơ chế quản lý cụ thể; thống nhất quản lý để chống thẩm lậu thuế. Bên cạnh đó, Ngành Hải quan sẽ tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật hải quan để người dân hiểu và chấp hành.
Tuy nhiên, nếu khi có quy định được đưa vào lưu hành nội địa thì việc cấp giấy phép cho xe máy vào nội địa của cơ quan công an và việc quản lý, theo dõi xe máy tạm nhập - tái xuất của cơ quan hải quan sẽ rất khó khăn bởi một số lượng lớn xe máy hàng ngày qua lại trạm kiểm soát.  
- Vậy thực hư sự việc dư luận phản ánh người dân trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo khi đi xe máy mua từ cửa hàng miễn thuế trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt  vào nội địa bị lực lượng hải quan kiểm tra gây phiền hà như thế nào, thưa ông?
- Việc Chi cục Hải quan Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo vừa qua niêm yết công khai tại cửa khẩu và tuyên truyền trên đài truyền hình địa phương về nội dung chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương là việc làm cần thiết. Việc làm đó không ngoài mục đích tuyên truyền cho nhân dân hiểu để tuân thủ, chấp hành. Mặt khác cũng nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng, bởi theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người bán hàng phải cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa. Hiện tại ở Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, doanh nghiệp bán hàng không cung cấp đầy đủ thông tin về đối tượng được miễn thuế, về quy định phải chịu sự quản lý của hải quan khi muốn lưu hành về nội địa mà chỉ với mục đích bán được hàng để thu lợi nhuận; nhiều cửa hàng treo biển miễn thuế nhưng không cung cấp rõ cho người tiêu dùng biết là chỉ được miễn thuế khi tiêu thụ trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, nếu đưa về nội địa phải chịu các loại thuế theo quy định. Do đó, khi đưa hàng hóa cũng như xe máy về nội địa, người tiêu dùng phản ứng với lực lượng hải quan khi bị kiểm tra.
Trong thời gian qua, Chi cục Hải quan Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo vẫn tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc sinh sống ở trong và ngoài khu vực cổng B, cán bộ, công chức, giáo viên ở trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo nhưng công tác ở huyện Đakrông có đăng ký xe máy trong Khu được lưu hành thuận lợi. Đối tượng này chỉ có khoảng 100 chiếc. Không có trường hợp xe máy và hành khách ách tắc ở cửa khẩu.
- Xin cám ơn ông!
Quang Vũ thực hiện

Friday, August 12, 2011

12/08 Võ Nguyên Giáp: "Chỉ là giọt nước trong biển cả"

12/08/2011 | 09:36:00
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tác giả (Ảnh: tác giả cung cấp)
CÁC TIN LIÊN QUAN
Tướng Giáp: Nhân dân mới là tướng tài giỏi nhất!
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng lẫy lừng nhưng ông lại rất thấu hiểu rằng chính nhân dân mới là những "vị tướng" tài giỏi nhất.

Võ Nguyên Giáp trên con đường mòn Hồ Chí Minh
Đại tướng viết: “Trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân 1975, đánh dấu bước phát triển mới hết sức rực rỡ của nghệ thuật chiến tranh nhân dân."

Đại tướng Võ Nguyên Giáp chẳng những là một nhà quân sự lỗi lạc, tên tuổi gắn liền với hai cuộc trường chinh lịch sử anh hùng của dân tộc Việt Nam, khiến bè bạn ta khắp năm châu hết lòng ngưỡng mộ, mà ông còn là một nhà văn hóa, am hiểu tinh thông lịch sử cũng như văn học nghệ thuật trong nước và nước ngoài, đã cho ra mắt nhiều tập hồi ký văn học giá trị.

Trong đời thường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thích chụp ảnh và đánh đàn piano. Với ông, mỗi bức ảnh do ông tự chụp bằng chính máy ảnh của mình là một dấu ấn, một kỷ niệm, một niềm vui những lần đi chiến dịch hay trên mọi nẻo đường công tác.

Và, từ cây piano được kê ở phòng khách (tại nhà riêng), tiếng đàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng hồi hộp, thiết tha, xúc động và say mê trong một tối mùa thu năm ấy, khi ông được đánh đàn cho Bác Hồ nghe.

Hàng phím đen trắng dưới tay ông đã vang lên bản hùng ca quen thuộc - "Chiến thắng Điện Biên," rồi lại ngân tiếp bản sonat của Beethoven và những điệu dân ca mà ông thường ưa thích: "Trống cơm," "Trẩy hội đêm rằm"...

Ông đàn chăm chú, hào hứng và Bác Hồ nghe rất thích thú, say mê. Nhưng cũng chính tối mùa thu năm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đành chịu lỗi với Bác Hồ: ông chưa đánh được bài ca "Kết đoàn" cho Bác nghe, chỉ vì một lẽ đơn giản là bài ca ngắn, rất quen thuộc đã từng vang lên mọi nơi và dường như ai cũng biết hát ấy, bài ca gắn liền với hình ảnh thân thiết đã từ lâu đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ bắt nhịp hát bài ca 'Kết đoàn' - chưa hề có ai soạn cho đàn piano.

Ngay hôm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu người bấy lâu nay vẫn hướng dẫn cho mình tập đàn soạn bài ca "Kết đoàn" cho piano, rồi ông tập một cách hào hứng và nghiêm chỉnh, những ao ước sẽ lại có một lần được đánh bài hát đó trên phím đàn piano cho Bác Hồ nghe. Nhưng Bác đã đi xa.

Ngay từ khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc (1954), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã học đàn. Người giảng viên được trường Nhạc (nay là Nhạc viện Hà Nội) cử hướng dẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp học đàn piano là cô Nguyễn Thị Hồng Hạnh (vợ nhà văn Đào Vũ) cho tôi biết: Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã học đàn rất say mê và cũng rất nghiêm túc. Ngay cả những năm tháng tham gia lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, từ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, trận “Điện Biên Phủ trên không” hay cả trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông vẫn học đàn rất nề nếp, rất hào hứng.

Phải chăng tiếng đàn có vai trò nào đó khi bậc tướng lĩnh quyết định những vấn đề lớn lao của chiến cuộc? Với niềm suy tư ấy, vào một lần có dịp phỏng vấn Đại tướng đầu xuân năm 1998, tôi dè dặt hỏi ông xem cảm hứng âm nhạc đến với ông trong hoàn cảnh nào, âm nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung có tác dụng gì đối với một vị chỉ huy quân sự lỗi lạc trong thời kỳ chiến tranh như ông.

"Hồi ấy, trong chiến dịch Biên giới, 11 ngày đêm căng thẳng, đầu óc không khi nào không nghĩ đến cuộc chiến. Bỗng dưng, một đêm khuya, tôi nghe có tiếng đàn từ dưới suối vọng lên - tiếng đàn guitar của một đồng chí chiến sĩ. Tự dưng tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản, đầu óc như được thư dãn ra, dễ chịu quá," Đại tướng kể lại.

"Tôi bỗng nhận ra tác dụng của âm nhạc đối với chính mình nói riêng, và càng hiểu hơn tác dụng của văn nghệ đối với kháng chiến. Tôi rất muốn và hết sức cổ vũ anh chị em văn nghệ sĩ đem lời ca, tiếng đàn, điệu múa... của mình ra tận chiến trường phục vụ chiến sĩ ta."

"Những khi có văn công, kể cả văn công địa phương - các chị em người Thái ở Tây Bắc, múa hát phục vụ bộ đội, tôi cũng thường lắng nghe. Đặc biệt, tôi rất thích nghe hát dân ca. Cũng từ đó, tôi ao ước biết đánh đàn, để tâm hồn mình được thư thái, thoải mái khi đầu óc phải làm việc nhiều, bận rộn. Nhưng lúc bấy giờ làm gì có điều kiện, có thời gian."

"Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, điệu múa sạp được cải tiến, tôi nói với anh Đỗ Nhuận: 'Anh sáng tác một bài về giải phóng Điện Biên để bộ đội ta vừa hành quân ra trận vừa hát.' Tiếc là không kịp khi hành quân nhưng bài hát đã kịp hoàn thành khi chiến thắng Điện Biên."

Rời câu chuyện về khúc ca giải phóng như đoạn nhạc dạo, Đại tướng nói về một vấn đề lớn hơn, về những nhịp nối của các thế hệ: "Tuổi trẻ bây giờ rất giỏi, rất năng động, tiếp thu kiến thức về khoa học kỹ thuật rất nhanh, nhưng mà... (tuổi trẻ bây giờ) ít hiểu biết về lịch sử quá. Giáo dục có dạy lịch sử nhưng chưa đủ. Phải dạy cho tuổi trẻ hiểu biết lịch sử một cách sâu sắc, thấu đáo. Hiểu lịch sử là biết mình, biết người, biết truyền thống, biết hiện tại... Làm quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao đều cần có kiến thức lịch sử. Và, giáo dục phải có cách dạy cho trẻ từ 3, 4, 5 tuổi, kiểu như 'Đồng ấu giáo khoa thư' ngày xưa ấy. Bởi vì tuổi ấy đã bắt đầu hình thành nhân cách. Tuổi ấy nhớ lâu dữ lắm. Những điều mà bà tôi, mẹ tôi dạy tôi từ 3, 4, 5 tuổi, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ lắm."

Mỗi lần có tờ báo hoặc cuốn sách nào in riêng có bài tôi viết về Đại tướng, tôi lại được phép đến trực tiếp tặng ông tại nhà riêng.

Cầm tờ báo tầm cỡ trên tay có cái tít lớn: “Giọt nước trong biển cả,” Đại tướng rất vui, ông nói ngay: “Tôi nói đây mà! Đây là tôi nói mà!” Tôi thật sự cảm động! Tôi đã xin phép được mượn lời của chính Đại tướng để làm nhan đề bài báo viết về ông - người chiến thắng đối phương cả trong cuộc chiến bằng ngôn từ - trong cuộc đối thoại giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp với phái đoàn quân sự Mỹ (McNamara).

Mấy mươi năm sau cuộc chiến đã đủ để đối phương nhìn nhận lại, tìm lời giải thích đích đáng cho sự thất bại của phía mình. Với lòng ngưỡng mộ và thán phục người chiến thắng, một thành viên phái đoàn tên là Smith đứng dậy nói: "Thưa Đại tướng! Ngài quả là một vị tướng huyền thoại!...”

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cười, đáp: “...Một vị tướng dù có công lao to lớn đến mấy cũng chỉ là giọt nước trong biển cả, là một chiếc lá xanh của rừng xanh bao la. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... Tôi đã nghĩ và đã sống bình đẳng với những người lính của mình. Tôi hoàn thành nhiệm vụ cũng như những người lính hoàn thành nhiệm vụ...” (Trích sách “Con người và sự kiện,” Nguyễn Thị Mỹ Dung - Nhà xuất bản Lao Động, 2003).

Tôi được biết, có một dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam khi đi thăm một đơn vị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ngồi đệm đàn cho ca sĩ Tường Vi hát bài “Bế Văn Đàn.” Cảm động và thú vị biết chừng nào! Một vị tướng đã đánh đàn bài hát ca ngợi chiến sĩ của mình.

Cảm phục và biết ơn Đại tướng, nhân dịp này, tôi bỗng nhớ rất nhiều và lại muốn viết về ông như một đóa hoa tươi thắm tôi muốn gửi tới Kính mừng sinh nhật lần thứ 100 tròn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp./.
Nguyễn Thị Mỹ Dung (Vietnam+)

12/08 Dai dẳng mối đe dọa an ninh hàng không

12/08/2011 10:45:48 AM
Tan-so.jpg
Nhiều thiết bị phát sóng không hợp chuẩn gây can nhiễu nặng cho hệ thống điều hành bay. (Ảnh minh hoạ)


ICTnews - Thay vì nghe tín hiệu của đài điều khiển không lưu, các phi công lại "được nghe thêm" tín hiệu của nhiều đài phát thanh do các thiết bị phát không đủ tiêu chuẩn gây nên. Đây là vấn đề cực kỳ nguy hiểm cho an ninh hàng không và tính mạng của hành khách trên máy bay.  
Nhiều thiết bị phát thanh, truyền hình không hợp quy chuẩn
Cục Tần số vô tuyến điện cho biết, qua công tác đo kiểm tra 163 thiết bị phát sóng truyền hình, 111 thiết bị phát sóng phát thanh và 156 thiết bị truyền thanh không dây (TTKD), Cục đã xác định số lượng thiết bị phát sóng của các đài phát thanh truyền hình (PTTH) không đáp ứng tiêu chuẩn hiện hành bắt buộc áp dụng về phát xạ không hợp quy chuẩn trong số thiết bị đã đo chiếm tỷ lệ cao. Cụ thể tỷ lệ này của thiết bị phát thanh, truyền hình không đáp ứng của cấp trung ương cao nhất là 66,7% (tức là cứ 6 thiết bị được kiểm tra thì có 4 thiết bị vi phạm), cấp tỉnh là 55,3% và cấp huyện là 48,5%.
Về các thiết bị TTKD, Cục Tần số vô tuyến điện đã tiến hành kiểm tra chất lượng phát xạ, tỷ lệ thiết bị TTKD không đáp ứng quy chuẩn là 25%. Ngoài ra, qua công tác kiểm tra đã phát hiện một số chủng loại thiết bị TTKD có tần số không đúng băng tần cho phát thanh quảng bá. Nhiều địa phương đã mua thiết bị TTKD do công ty PETEC sản xuất có băng tần (235-273 MHz) không đúng với quy hoạch cho nghiệp vụ quảng bá. Cục Tần số vô tuyến điện đã gửi công văn tới các Sở TT&TT và Đài PTTH tỉnh, thành thông báo sẽ không cấp giấy phép sử dụng tần số và thiết bị phát sóng cho các thiết bị này. Thế nhưng, đến nay một số địa phương vẫn sử dụng hệ thống này như Quảng Nam, TP. Hồ Chí Minh…
Cục Tần số Vô tuyến điện cho biết, nhiều thiết bị TTKD sản xuất trong nước không được chứng nhận hợp quy, dẫn tới tình trạng vẫn đưa vào sử dụng các thiết bị không đáp ứng quy chuẩn đối với thiết bị phát thanh FM, tạo nguy cơ gây can nhiễu có hại cao cho các hệ thống thông tin vô tuyến điện khác. Thiết bị PTTH, TTKD không đáp ứng quy chuẩn chiếm tỷ lệ cao, hoặc có tần số không đúng băng tần quy định có nguyên nhân chủ yếu do công tác quản lý chất lượng thiết bị phát sóng vô tuyến điện từ khâu cho phép sản xuất, nhập khẩu, chứng nhận hợp quy, lưu thông trên thị trường đến lắp đặt, sử dụng thiết bị truyền thanh không dây chưa được thực hiện tốt. Ngoài ra còn có nguyên nhân nhiều thiết bị truyền hình đã được chứng nhận hợp quy trước năm 2007 đã không còn phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện nay.
Các thiết bị phát sóng PTTH, TTKD không đáp ứng chất lượng nêu trên đã làm gia tăng số lượng can nhiễu. Nhiều vụ can nhiễu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động điều hành bay, chất lượng dịch vụ của mạng thông tin di động, gây khó khăn cho công tác quản lý tần số, đặc biệt trong công tác giải quyết can nhiễu, ấn định và cấp phép tần số.
Tăng cường công tác quản lý chất lượng thiết bị phát sóng
Ông Đoàn Quang Hoan, Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện cho biết, để hạn chế tối đa các can nhiễu có hại do thiết bị phát sóng của các đài PTTH, TTKD gây ra, Cục Tần số vô tuyến điện kiến nghị Bộ trưởng Bộ TT&TT chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ, các Sở TT&TT tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai và thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực được phân công đối với các đài PTTH và truyền thanh không dây. Bên cạnh đó, các Sở cũng chủ trì, phối hợp với Cục Tần số vô tuyến điện tiến hành kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính các đơn vị sử dụng thiết bị phát sóng PTTH, TTKD vi phạm các quy định của pháp luật về tần số vô tuyến điện.
Cục cũng đề nghị Vụ Khoa học công nghệ chủ trì phối hợp với Cục Viễn thông và các đơn vị có liên quan nghiên cứu, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật về phổ tần và tương thích điện từ đối với thiết bị phát sóng TTKD, băng tần 54-68MHz, làm cơ sở để chứng nhận hợp quy và định hướng việc nhập khẩu, sản xuất và sử dụng thiết bị phát sóng TTKD theo đúng quy hoạch. Ông Đoàn Quang Hoan cũng đề nghị Cục Viễn thông tăng cường công tác quản lý chất lượng thiết bị phát sóng PTTH, TTKD từ sản xuất trong nước, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và đưa vào sử dụng để hạn chế việc sử dụng các thiết bị vô tuyến điện có tần số hoạt động không đúng quy hoạch, không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật về phát xạ gây can nhiễu cho các hệ thống thông tin khác. Bên cạnh đó, tăng cường công tác chứng nhận hợp quy thiết bị phát sóng phát thanh, truyền hình, truyền thanh không dây, công tác kiểm định, quản lý hoạt động công bố sự phù hợp đối với các công trình là các đài phát sóng PTTH trước khi đưa vào sử dụng.
Cục Tần số vô tuyến điện đưa ra đề xuất Bộ TT&TT sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy định về quản lý chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho thiết bị phát sóng phát thanh, truyền hình, truyền thanh không dây.
Can nhiễu nặng, phi công nghe được tiếng của đài phát thanh
Theo thống kê từ năm 2008 đến nay, khi giải quyết can nhiễu các mạng thông tin vô tuyến điện, Cục Tần số vô tuyến điện đã xác định 36 vụ can nhiễu liên quan đến chất lượng thiết bị phát sóng PTTH của các Đài PTTH từ cấp trung ương đến địa phương. Trong đó, có 7 vụ can nhiễu mạng điều hành bay do thiết bị phát thanh, 20 vụ can nhiễu mạng thông tin di động do thiết bị phát thanh, phát hình.
Trong khi đó, công tác giải can nhiễu có liên quan đến đài PTTH luôn phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các mạng thông tin vô tuyến điện (VTĐ), thông tin điều hành đảm bảo an toàn bay. Các can nhiễu tần số điều hành bay chủ yếu xảy ra đối với các đài VTĐ đặt trên máy bay, một số ít can nhiễu đến hệ thống VTĐ mặt đất.
Trong thời gian qua, các báo cáo nhiễu của phi công hầu hết nghe được tiếng phát thanh, toạ độ báo nhiễu trên phạm vi nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với số lượng lớn các đài phát thanh. Nhiều thiết bị TTKD không đáp ứng quy chuẩn là nguyên nhân gây ra nhiều vụ can nhiễu có hại, đặc biệt nghiêm trọng là các vụ gây can nhiễu có hại cho hệ thống thông tin lưu động hàng không. Chẳng hạn Đài TTKD phường Ninh Sơn, thị xã Ninh Bình đã sử dụng tần số 107.5 Mhz có phát xạ giả gây can nhiễu cho các đài tầu bay tại tần số 125.9 Mhz từ vùng biển Thanh Hoá đến Hà Nội. Chưa hết, Đài dẫn đường sân bay Tân Sơn Nhất sử dụng tần số 120.1 MHz bị can nhiễu bởi phát xạ giả của đài truyền thanh xã Cư Huê, huyện Eakar, tỉnh Đắk Lắk sử dụng tần số 91.5 MHz và đài truyền thanh xã Nam Đà huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông sử dụng tần số 60 MHz.
Theo Cục Tần số Vô tuyến điện, các đài phát thanh FM không đáp ứng quy chuẩn về phát xạ cũng gây can nhiễu cho hệ thống TTKD. Chẳng hạn Đài tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh tại Sóc Trăng có phát xạ giả gây can nhiễu cho đài TTKD thị trấn Mỹ Xuyên – Sóc Trăng. Câu chuyện can nhiễu không dừng lại ở đó khi Cục đã phát hiện chất lượng lọc thu của loa không đảm bảo kỹ thuật, chất lượng nên rất nhiều trường hợp các cụm loa bị can nhiễu, phát sóng sai mục đích, ảnh hưởng đến người nghe đài. Các cụm loa không dây tại một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Đồng Tháp, TP. Hà Nội… bị can nhiễu dẫn đến chất lượng âm thanh kém, nghe không rõ, thời lượng phát sóng kéo dài (do tiếp tục tiếp âm cho đài khác) gây phản ứng từ người dân. Thậm chí, một số phần tử lợi dụng, sử dụng bộ đàm để kích cụm loa TTKD phát nội dung xấu.
Cục Tần số vô tuyến điện cho biết, can nhiễu mạng thông tin di động có liên quan đến PTTH chủ yếu do thiết bị phát sóng PTTH có công suất lớn, việc điều chỉnh thiết bị gặp nhiều trở ngại, thời gian kéo dài và chi phí khắc phục thiết bị đảm bảo chất lượng lớn.
Hiện Cục Tần số vô tuyến điện đã cấp giấy phép sử dụng tần số trong đoạn băng 87-108 MHz cho 865 đài phát thanh FM cấp trung ương, tỉnh (thành phố), huyện, tỉnh quản lý, và gần 2000 đài TTKD cấp phường, xã; cấp giấy phép cho hơn 1300 máy phát truyền hình. Vì vậy mật độ sử dụng tần số PTTH rất cao, đặc biệt trong đoạn băng tần 87-108 MHz cho phát thanh FM đã không đáp ứng để ấn định cho các đài phát thanh FM đăng ký sử dụng.
Để tránh gây can nhiễu cho các đài phát thanh FM đã được cấp phép sử dụng tần số, đồng thời có đủ tần số phân bổ cho các đài TTKD, Cục Tần số vô tuyến điện đã có công văn số 601/CTS-PTTH ngày 12/04/2007 đề nghị Sở TT&TT, Đài PTTH tỉnh (thành phố) hướng dẫn Uỷ ban nhân dân (UBND) các phường, xã trên địa bàn tỉnh có kế hoạch triển khai hệ thống TTKD sử dụng tần số trong đoạn băng tần 54-68 MHz với công suất nhỏ (dưới 30W) tạo điều kiện cho việc tái sử dụng tần số, tuy nhiên đến nay số lượng đài TTKD đã đăng ký sử dụng tần số trong băng tần 54-68 MHz rất ít.
Cục Tần số vô tuyến điện cho biết, sẽ chủ trì phối hợp với các Sở TT&TT hướng dẫn thủ tục đăng ký, cấp giấy phép sử dụng tần số và thiết bị phát sóng vô tuyến điện cho các đài PTTH, TTKD. Đồng thời Cục sẽ tăng cường kiểm soát tần số vô tuyến điện nhằm phát hiện kịp thời các thiết bị phát sóng PTTH, TTKD sử dụng không hợp pháp, không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật và kịp thời giải quyết khi có can nhiễu.
Trung Thành  
Nội dung được đăng trên báo Bưu điện Việt Nam số 96 ra ngày 12/8/11

12/08 Tên lửa: Kế hoạch đánh bại Mỹ của Trung Quốc


Dù không ít nỗ lực phô trương sự hiện đại, nhưng quân sự Trung Quốc có thể yếu hơn nhiều người suy đoán, đặc biệt nếu so sánh với Mỹ.


Tuy nhiên, Bắc Kinh có một kế hoạch giản đơn - thậm chí là rủi ro - để bù đắp điểm yếu của mình: đó là mua tên lửa. Sau đó, mua nhiều và nhiều hơn nữa. Tất cả các loại tên lửa: tầm ngắn và tầm dài, phóng từ mặt đất, từ biển, đạn đạo hay hành trình... 
Có hai chủ đề nổi bật từ tác phẩm Sức mạnh không gian Trung Quốc - gồm những bài luận do Andrew Erickson biên tập. Erickson là nhà phân tích Trung Quốc khá nhiều ảnh hưởng của đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ. 
Theo Sức mạnh không gian Trung Quốc, ngày nay có khoảng 2.000 tên lửa đạn đạo và hành trình phi hạt nhân. "Phát triển kho vũ khí tên lửa với các tên lửa đạn đạo ngày càng có độ chính xác cao và tên lửa hành trình tấn công mặt đất ngày càng trở thành nền móng của khả năng chiến đấu với PLA", Mark Stokes và Ian Easton viết. Với mỗi loại vũ khí mà quân đội Trung Quốc (PLA) luôn tụt hậu so với Lầu Năm Góc, thì tên lửa có thể giúp Trung Quốc tạo ra sự khác biệt. 
Đó là thực tế rõ ràng. Mặc dù giới thiệu hàng loạt vũ khí mới trong những năm gần đây gồm máy bay chiến đấu, trực thăng, tàu khu trục, tàu ngầm và cả một tàu sân bay Liên Xô được nâng cấp, nhưng Trung Quốc vẫn thiếu rất nhiều hệ thống cơ bản, tổ chức và thủ tục cần thiết để đánh bại một kẻ thù quả quyết, được trang bị tốt. 
Lấy ví dụ là tiếp nhiên liệu trên không. Để triển khai một số lượng lớn các máy bay tiếp dầu hiệu quả trên không đòi hỏi khả năng xây dựng và hỗ trợ các động cơ lớn - điều mà Trung Quốc chưa thể làm ngay. Trong tiếp dầu trên không đòi hỏi việc lên kế hoạch, điều phối và phối hợp vượt xa những gì PLA có thể đáp ứng. Kết quả là "PLA chỉ có máy bay tiếp dầu trong phạm vi cung cấp ngắn”, Wayne Ulman giải thích. 
Theo Sức mạnh Không gian Trung Quốc, tính về tổng số, PLA chỉ vận hành 14 máy bay tiếp dầu H-6U, mỗi chiếc chỉ mang được khoảng 17.000 kg nhiên liệu nạp (trong khi đó, chỉ riêng lực lượng không quân Mỹ đã sở hữu hơn 500 máy bay tiếp dầu, mỗi chiếc mang được khoảng 100.000 kg nhiên liệu). Vì thế, trong khi về lý thuyết , PLA có thể tự hào với hơn 1.500 máy bay chiến đấu, nhưng trên thực tế, chỉ có thể tiếp nhiên liệu cho 50-60 chiếc ở cùng thời điểm, giả định toàn bộ máy bay tiếp dầu H-6 hoạt động hoàn hảo. 
Trong trường hợp xảy ra cuộc chiến trên không về Đài Loan, cách xa phần lớn những căn cứ của Trung Quốc hàng trăm km, chỉ có 50 máy bay chiến đấu có thể dành thời gian chiến đấu hơn vài phút trên chiến trường. Như vậy, ưu thế về máy bay chiến đấu của Trung Quốc so với Đài Loan thực ra là đảo ngược. Chênh lệch sẽ lớn hơn nếu có sự tham gia của cả máy bay chiến đấu Mỹ. 
Và đâu là giải pháp của PLA? Dĩ nhiên đó là tên lửa. Có tới cả nghìn tên lửa đạn đạo và hành trình, phần lớn bắn từ các bệ phóng mặt đất “dường như sẽ được huy động trong cuộc chiến đầu tiên” chống lại Đài Loan hoặc các căn cứ ở Thái Bình Dương của Mỹ, Ulman viết. Mục tiêu là để tiêu diệt càng nhiều máy bay của đối phương càng tốt, thậm chí trước khi cuộc chiến bắt đầu. 
PLA có thể dùng cách tiếp cận tương tự để bù đắp những điểm yếu trên biển hiện nay của họ. Các tàu ngầm luôn luôn là “sát thủ” chống tàu tiềm năng nhất  của bất kỳ quốc gia nào, nhưng tàu ngầm Trung Quốc quá ít, quá ồn ào và thủy thủ thì quá thiếu kinh nghiệm trong việc tiếp cận và đối đầu với Hải quân Mỹ. Jeff Hagen dự báo, nếu cuộc chiến bắt đầu, “các tàu ngầm Trung Quốc sẽ trở thành mục tiêu dễ bị công kích”. 
Và hãy quên đi cách sử dụng máy bay chiến đấu trang bị vũ khí tầm ngắn để tấn công hải quân Mỹ. Một nhà phân tích Trung Quốc ước tính, sẽ cần có khoảng 150 - 200 máy bay chiến đấu Su-27 để phá hủy một tàu tuần dương lớp Ticonderoga của Mỹ. Toàn bộ PLA có khoảng 300 chiếc Su-27 trong khi hải quân Mỹ có 22 tàu tuần dương Ticonderoga. 
Lại một lần nữa, tên lửa là sự bổ sung hoàn hảo. Một cuộc tấn công “siêu bão hòa” với hàng trăm tên lửa đạn đạo có khả năng “vô hiệu hóa lập tức hệ thống phòng không của Ticonderoga”, Toshi Yoshihara viết. Nếu ở gần bờ, Trung Quốc có thể sử dụng các loại tên lửa cũ, kém chính xác và tầm ngắn hơn mà họ đã sở hữu với số lượng rất phong phú. Với cuộc chiến tầm xa, PLA đang triển khai chương trình tên lửa DF-21D mệnh danh “sát thủ tàu sân bay” sử dụng vệ tinh và máy bay không người lái để định vị chính xác mục tiêu. 
Mặt trái của chiến lược lấy tên lửa làm trọng tâm của Trung Quốc là nó có thể đại diện cho cái gọi là “điểm yếu duy nhất”. Do quá phụ thuộc vào một loại vũ khí có thể khiến PLA dễ bị tổn thương nếu gặp một loại biện pháp đối phó. Trong trường hợp này, đó chính là hệ thống chống tên lửa đạn đạo của Lầu Năm Góc, bao gồm các tàu chiến trang bị tên lửa SM-3, tên lửa Patriot và hệ thống pháo phòng không tầm cao của bộ binh Mỹ. 
Hơn thế nữa, tên lửa là loại vũ khí dùng một lần. Không thể tái sử dụng chúng như máy bay chiến đấu hay tàu khu trục. Điều đó có nghĩa là, trong thời chiến, Trung Quốc buộc phải chiến thắng nhanh hoặc thất bại. “Ví dụ, tính tổng số lượng tên lửa đạn đạo thông thường của Trung Quốc, có thể dội khoảng một nghìn tấn chất nổ có sức công phá lớn vào các mục tiêu”, Roger Cliff giải thích. “Tương quan so sánh với máy bay của Không quân Mỹ, có thể dội một lượng thuốc nổ gấp vài lần mỗi ngày trong khoảng thời gian không xác định”.  

Thái An (Theo wired)

12/08 Nhân "Thành nhà Hồ" được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới- bàn về ông Vua cải cách tiền tệ



Thành Nhà Hồ được Việt Nam công nhận là di tích quốc gia từ năm 1962. Việc xây dựng hồ sơ để đệ trình UNESCO được khởi động từ năm 2006 và ngày 27/6/2011 vừa qua đã chính thức được công nhận là Di sản văn hoá thế giới tại kỳ họp lần thứ 35 của Uỷ ban di sản thế giới UNESCO (WHC) diễn ra tại Paris, Cộng hoà Pháp.



Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc theo lối dinh lũy phòng thủ khi sảy ra chiến tranh. Công trình được Hồ Quý Ly-  một ông quan có nhiều thanh thế trong triều Trần cho xây dựng vào năm 1397 ở An Tôn (thuộc hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc,  tỉnh Thanh Hóa). Thành có hình chữ nhật, chu vi khoảng 3 km vuông, tường bao quanh xây bằng những khối đá hình hộp  được mài nhẵn, phẳng, dài từ 2 đến 4m, cao 1m, dày 0,7m. Cổng ghép đá hình vòm, cao 8m. Trong thành có khu dinh thự để vua ngự và xuống chiếu, nay chỉ còn lại những con rồng đá chạy dọc bậc thềm... 

                                           

           Từ một ông Quan  nắm được nhiều quyền hành tối cao ở triều Trần, tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua, lập ra vương triều mới: Triều Hồ. Nhà Hồ tồn tại được 7 năm (1400-1407) và dời đô từ Thăng Long về An Tôn, gọi đây là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội).  Trong khoảng 35 năm, Ông đã từng bước tiến hành nhiều cuộc cải cách rộng lớn về mọi mặt, từ chính trị, văn hóa đến  kinh tế- xã hội. Trong phạm vi  bài viết này,  xin dẫn dụ về một số nét về cải cách tiền tệ.
         Lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ thời phong kiến  Việt Nam có chuyện tiêu dùng tiền giấy.
         Lịch sử tiền tệ của chế độ phong kiến Việt Nam là lịch sử tiếp thu có chọn lọc tinh hoa chế tác đồng tiền kim loại hình tròn- lỗ vuông của nước láng giềng Trung Quốc vốn đã có ảnh hưởng khá sâu đậm qua hàng ngàn năm Bắc thuộc. Khác chăng là các ông Vua Việt lấy biểu trưng niên hiệu, hoặc thời hiệu của mình để đặt tên cho đồng tiền qua mỗi lần phát hành thay vì dùng tên tiền Trung Quốc cùng thời để chứng tỏ tính độc lập của vương triều thông qua tiền tệ.
Thế nhưng vào  năm 1396  “…mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái, năm thứ 9 bắt đầu phát hành tiền giấy “Thông Bảo Hội Sao”. In xong, hạ lệnh cho người đem tiền đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền…”. (trích Đại Việt sử ký toàn thư).
            Cũng phải nhắc lại là, năm 1024 ở Trung Quốc đã thấy nói triều đình Bắc Tống phát hành tiền giấy,  gọi là “Quan Giao Tử”. Dần dần, “Giao tử” cải thành “Tiền dẫn”, “Hội tử”, “Giao sao” …(xin xem:Lịch sử tiền giấy. http://vi.wikipedia.org). Tuy nhiên, các loại “tiền giấy” này thực chất chỉ như “ngân phiếu”, nó không thay thế hoàn toàn tiền kim loại trong lưu thông tiêu dùng. Do là những “bảo chứng” tiền tệ có mệnh giá lớn nên nó cũng chỉ lưu hành hạn hẹp ở tầng lớp giàu có. Cho đến năm1455 (thuộc triều nhà Minh) loại “tiền giấy” này không còn thấy lưu hành.
         Việc phát hành tiền giấy thời Hồ có thể xem là dấu hiệu của một “biến cố” bởi sự kiện xảy ra chưa từng có tiền lệ tại Việt Nam. Điểm khác biệt căn bản so với nước láng giềng Trung Quốc là Hồ Quý Ly đãquyết định thay đổi dùng tiền kim loại sang tiền giấy. Về hình thức có thể cho rằng “Thông bảo hội sao” là cách phỏng  theo “Quan Giao Tử” hoặc “Giao sao” của Trung Quốc … , nhưng về quan niệm tiền tệ thì Hồ Quý Ly đã xem ‘Thông bảo hội sao”  là đồng tiền chính thức.
         Do tiên liệu trước sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc khép dân chúng tiêu dùng tiền giấy, Hồ Quý Ly cũng đã ban hành các điều luật cực đoan đi kèm, như: Cấm hẳn tiêu tiền kim loại, định tội không tiêu tiền giấy… Cho đến năm 1401, Hồ Hán Thương (con trai thứ của Hồ Quý Ly, nối ngôi vua) còn phải khuyến khích: “… mỗi mẫu thu 3 thăng thóc nay thu 5 thăng nhưng nộp bằng tiền giấy thì được giảm đi. Thuế đinh cũng tương tự, thu bằng thóc thì thu nặng hơn trước, nhưng thu bằng tiền giấy thì lại giảm đi…” (sách đã dẫn). Năm 1402, định lại các thuế  về tô ruộng, theo đó: ngoài việc dùng các quy định của pháp luật còn đưa ra nhiều biện pháp khác cố làm cho  tiền giấy được lưu hành rộng rãi trong dân. Nhưng trong thực tế, đến năm 1403, tức sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, đến nỗi dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng để tránh phạm luật…
            Nguyên nhân và những hệ lụy của việc phát hành tiền giấy.
         Chuyện kể rằng, thời Hồ có Nguyên Trừng (con trai trưởng của Hồ Quý Ly)- là người sáng chế ra “thần cơ sang pháo” (súng thần công). Khi nhà Minh Trung Quốc tấn công Việt Nam theo lời thỉnh cầu của hậu duệ họ Trần, bắt được người chế súng cùng nhiều khẩu thần công đem về Trung Quốc, ông không bị giết mà còn được phong là “Tả tướng quốc”.  Mỗi lần làm lễ tế súng thần công, quân Minh đều phải tế sống Hồ Nguyên Trừng.
         Do thời phong kiến,  nguồn nguyên liệu đồng  luôn khan hiếm, vì vậy, nếu để duy trì  đúc tiền kim loại trong hoàn cảnh sáng chế súng thần công cũng đang rất cần một nguồn nguyên liệu đồng to lớn, thì đây quả là một thách thức không nhỏ.  Cùng với nguy cơ bị giặc Minh Trung Quốc đe dọa xâm lược, buộc Hồ Quý Ly phải lựa chọn hoặc đúc tiền, hoặc đúc súng. Và ông đã lựa chọn đúc súng.
Nếu đây là một trong những nguyên nhân cơ bản thì việc chuyển sang dùng tiền giấy là một quyết định đúng. Chỉ có điều, việc hoạch định chính sách cải cách đó  luôn chứa đựng các yếu tố cực đoan, thiếu các cơ sở có tính chất nền tảng để thực thi,  khi mà việc phát hành tiền giấy rất khác với tâm lý tiêu dùng thông thường, lại không giống  quốc gia nào xét trên bình diện chung của tiền tệ trong khu vực.
          Những sự thay đổi đó vô hình chung đã đi ngược lại quyền lợi thiết yếu của người dân, với thói quen tiêu dùng và giao thương hàng hóa lâu đời bằng đồng tiền có lỗ xỏ dây, với việc cất trữ, tích lũy tiền với số lượng lớn của tầng lớp quan lại, địa chủ, thương lái...một bộ phận không nhỏ tầng lớp trên trong xã hội. Sự quá đỗi đó đã vượt ngưỡng khuôn phép của hoàn cảnh kinh tế- xã hội đương thời có thể chấp nhận được.
 Việc ban hành tiền giấy của nhà Hồ xem như thất bại. Cùng với sự sụp đổ của nhà Hồ, tiền giấy cũng chấm dứt lưu hành (1407). Đánh dẹp xong quân Minh, năm 1429, năm thứ hai sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho đúc tiền kim loại trở lại, nhân dân  trở về tiêu dùng đồng tiền tròn- lỗ vuông.
          Ngày nay giới sử học nói chung đánh giá cao mặt tích cực của Hồ Quý Ly, cho rằng Ông là một nhà cải cách táo bạo và hiếm có trong lịch sử Việt Nam nhằm hai mục đích: tăng cường chế độ tập quyền, giải quyết mâu thuẫn kinh tế- xã hội, giải phóng sức sản xuất... những điểm sáng, tích cực trong hoàn cảnh hạn chế của chế độ phong kiến Việt Nam đương thời.

           MT