Wednesday, December 14, 2011

Mặt trái của nguồn kiều hối do thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn lếu láo


Khương Tử Dân


Có sự khác biệt quá to lớn, trầm trọng về “người Việt ở nước ngoài” dưới tầm nhìn và sự hiểu biết của bọn lãnh đạo giòi bọ VGCS Hà nội. Theo tư liệu của thứ trưởng ngoại giao Nguỹên Thanh Sơn gần đây nhất, khi nói về “người Việt ở nước ngoài” gồm tất cả là 4,5 triệu người. Dĩ nhiên là cường quyền CSVN bao giờ cũng muốn quản lý toàn diện cộng động người Việt ở hải ngoại, vì đó là nguồn chất xám, tiền rừng bạc biển vô tận từ thế hệ này qua thế khệ khác. Đảng cướp mafia và nhà nước cường quyền VGCS Hà nội luôn luôn có ý đồ, tham vọng đó. Tham vọng của cường quyền VGCVS Hà nội hoàn toàn đối nghịch với thực tế quan niệm của cộng đồng người Việt chạy giặc nội xâm Hà nội. Do đó, quan niệm này đã hình thành nhiều hình thức đấu tranh từ cộng đồng người Việt tỵ nạn ở hải ngoại với bạo quyền VGCS Hà nội từ nhiều thập niên qua. Một số tướng lãnh hèn nhát, gia nô như Nguỹên Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm và không ít trí thức gia nô, bưng bô cũng đã có ý đồ hòa họp, hòa giải để lập công kiếm chút cơm cháu, dịch vụ, tiền bạc, bổng lộc cho cá nhân họ.



Nhưng tất cả khuynh hướng xu thời, a dua, làm gia nô, bưng bô cho cường quyển đã thất bại hoàn tòan trong ý đồ của  nghị quyết 36 từ tám năm qua. Cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội đang định cư ở ngoại quốc, vẫn giữ được màu cờ vàng chính nghĩa của họ, và không để cho cường quyền Hà nội xâm nhập vào sinh hoạt xã hội, văn hóa, kinh tế, giáo dục của họ. Lãnh đạo giòi bọ VGCS Hà nội vẫn bị tẩy chay, bị khinh bỉ, bị chà đạp khi có ý nghĩ muốn đối thoại với cộng đồng người Việt tỵ nạn ở hải ngoại vì vấn đề ý thức hệ, tư duy, quan điểm, văn hóa, xã hội quá khác biệt. Căn bản là vấn đề ý thức hệ, vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền và tư pháp giưã hai bên hoàn toàn khác biệt như nước với lửa. Cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội đã dứt khoát là loài người có văn hóa, tự do, dân chủ, nhân quyền không thể sống chung với loài dã thú, rắn độc, hay loài khỉ nói tiếng Việt lai căng có lòng lang dạ thú. Sự kiện này cũng tương đồng với các cuộc đàm phán ngoại giao thân hữu giữa chính quyền Mỹ và bạo quyền VGCS Hà nội từ nhiều năm qua. Mặc dù chính quyền Obama nhân nhượng cho cường quyền VGCS duy trì thể chế cộng sản, nhưng phải có tự do, dân chủ, nhân quyền cho dân, và cường quyền VGCS Hà nội phải biết tôn trọng luật pháp. Đấy cũng là căn bản dựa trên Ý Dân, Lòng Dân, mọi sự lợi ích xã hội văn hóa phải ưu tiên dành cho dân, vì tất cả, không có chính quyền nào không do dân mà có. Nhưng lãnh đạo VGCS Hà nội đã thất bại, không thỏa đáng những điều kiện tiên quyết do Hoa Kỳ đề ra. CSVN đã bị Mỹ cho ra rìa trong chiến lược của Mỹ ở Châu Á Thái Bình Dương ở thế kỹ XXI, để ổn định và bảo vệ quyền lợi của các nước Đông Bắc Á, và Đông Nam Á. Lãnh đao VGCS Hà nội không muốn có tự do, dân chủ và luật pháp quang minh chính đại ở nước XHCN định hướng Tầu phù, lệ thuộc Bắc kinh, vì họ không muốn bị mất đảng trong tương lai.


Có thể nói lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng Hà nội đã cố tình nhập nhằng, đánh lận dân đen về chuỗi từ ngữ “người Việt ở nước ngoài” khác biệt với cộng đồng người Việt hải ngoại tỵ nạn VGCS đang định cư và sinh sống ở hải ngoại. Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản Hà nội, hay người Việt chạy giặc nội xâm Hà nội hoàn toà khác biệt với nhóm người Việt nô lệ do đảng cướp cộng sản Hà nội xuất cảng, cùng với nhóm phụ nữ VN lấy chồng xa, nhóm du sinh di tản để sống còn, dưới sự đàn áp dã man của cộng sản Hà nội và nhất là sự nỗi dậy của quần chúng. Nói cách khác, minh bạch và quang minh chính đại hơn, cộng đồng người Việt tự do, mang quốc tịch của các nước sở tại mà họ đang định cư, hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới sự quản lý, giao tiếp với các đại sứ quán Việt khấu Hà nội. Cộng đồng người Việt tự do tỵ nạn cộng sản Hà nội, hiện tại có gần ba (3) triệu người đa số đang định cư tại Mỹ, Canada, Úc, Pháp. Họ chỉ chịu ảnh hưởng pháp luật, và mọi qui luật của đất nước họ mang quốc tịch. Họ hoàn toàn tự do, cách biệt với cường quyền VGCS Hà nội. Cường quyền VGCS Hà nội đã nhiều lần thay đổi luật quốc tịch trong ý đồ manh nha áp đặt dụ dỗ họ tái hồi tịch VC, nhưng chẳng có người Việt tự do nào ngu xuẩn làm chuyện đó. Bọn lãnh đạo VGCS Hà nội, đúng là ngu hơn bò.


Người Việt di dân từ Việt nam sang Mỹ, theo diện ODP hiện nay vẫn tiếp tục, mỗi năm có khoảng 80.000 người Việt Nam được phép di dân vào Mỹ một cách chính thức do bố mẹ, anh em bảo lãnh. Cộng đồng người Việt tự do đang định cư ở hải ngoại là cộng đồng sống chết với màu cờ quốc gia, là cờ vàng ba sọc đỏ. Đó cũng là một biểu tượng mà lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng VGCS Hà nội phải sử dụng trăm phương nghìn kế, thủ đoạn gian ác để quấy nhiễu, áp đặt, nhưng đã hoàn toàn thất bại. Có thể nói ý đồ gian manh của  nghị quyết 36 được đảng VGCS Hà nội tung ra từ mùa xuân năm 2004 đã hoàn toàn vô dụng. Chỉ có một số trí thức vịt kìu, trí thức vịt trời, trí thức khoa bảng ếch riêu xu thời, chạy theo tiền tài, hư danh, bổng lộc, dịch vụ nhà đất,  dịch vụ mở trường học để kiếm tiền là sẵn sàng đi bằng đầu gối, lòn trôn, liếm giầy làm gia nô, bưng bô cho lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng VGCS Hà nội.


Trong bài phỏng vấn gần đây nhất, 20/10/2011, tiến sĩ Nguỹên Thanh Sơn, chuyên về ngôn ngữ văn chương, đương kim thứ trưởng ngoại giao, cũng là một loại tiến sĩ XHCN dởm. Nguyễn Thanh Sơn đã bị thưa kiện tố cáo tùm lum vì bằng tiến sĩ dởm hắn đã mua. Nhưng vì Nguỹên Thanh Sơn là thông gia với thượng tướng Trần Đại Quang, bộ trưởng công an, và là ủy viên BCT  do đó NT. Sơn có “piston” rất lớn mạnh trong bộ ngoại giao, gồm có đến bảy tên thứ trưởng. Trong bài phỏng vấn gần đây nhất, hắn tuyên bố: ”Hiện nay chúng ta có khoảng 4,5 triệu người Việt sống ở 104 quốc gia và khu vực trên toàn thế giới, trong đó ở Mỹ đong nhất có 2,2 triệu người.” Như vậy đã quá rõ ràng là đã có trên 1,5 triệu “người Việt sống ở nước ngoài” dưới dưới sự kiềm kẹp, kiểm soát, quản lý của bộ ngoại giao, do các sứ quán Việt khấu bảo hộ. Thứ trưởng ngoại giao Nguỹên Thanh Sơn có thể nắm vững con số này hơn ai hết. Tổng số “người Việt sống ở nước ngoài” hiện có trên 1,5 triệu người dưới sự quản lý, đàn áp của VGCS Hà nội gồm có: nhân viên sứ quán Việt khấu, người buôn lậu, côn đồ, đĩ điếm, ca sĩ, cán bộ nằm vùng, công nhân nô lệ, du sinh, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, gái lấy chồng xa, phụ nữ nô lệ tình dục...


Đừng bao giờ quên là trước khi Liên sô, Đông Đức, và công sản đông Âu sụp đổ, tổng số công nhân nô lệ người Việt, phần lớn là con cháu đảng viên, trong đó có cả con trai của Nông Đức Mạnh, tất cả khoảng 500.000 người. Sau khi Liên sô và các nước cộng sản đông Âu bị sụp đổ, số công nhân nô lệ do đảng cướp mafia gửi đi để trừ nợ đánh cướp miền nam VN, đa số đều sống bất họp pháp, vì nhà nước VGCS Hà nội không có đủ ngân quỹ để cho họ về nước VC. Họ phải sống bất hop pháp, đói nghèo tại các nước Đông Đức, Ba lan, Nga....


Từ năm  1992 đến tháng 6/2010 theo tư liệu trên báo Lao Động. Số công nhân nô lệ xuất cảng do bộ ngoại giao quản lý có tất cả là: 844.822 người, và được phân bổ như sau:


Công nhân nô lệ VN ở Đài Loan:            253.166 người.


Công nhân nô lệ VN ở Nam Hàn:           129.121   “      


Công nhân nô lệ VN ở Malaysia:          182.352   “   


Công nhân nô lệ VN ở Nhật bản:           52.480     “   


Công nhân nô lệ VN ở các nước khác: 227.833    “


Trong năm  2011, chỉ 7 tháng đầu năm, đảng VGCS Hà nội đã xuất cảng được 54.352  công nhân nê lệ. Họ dự tính sẽ vượt chỉ tiêu 85.00 nô lệ công nhân xuất cảng, vì ho đã dự tính đạt được trên 94.000 nô lệ xuất cảng cho năm 2011 trong năm tháng còn lại. Ngoài ra, số phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc, chồng Tầu, chồng Đài loan, và số người “ô-shin”, làm công việc nhà cho các gia đình người Đài Loan, Malaysia, Đại Hàn... cũng khá đông, có thể trên 400.000 người. Như vậy tổng số người Việt  ở ngoại ngoại dưới sự  kiểm soát, kiềm kẹp, quản lý của đảng có thể trên 1.5 triệu  theo như lời phát biểu của Nguyễn Thanh Sơn, rất đáng tin cậy. Dữ kiện này cũng rất tương đồng với số liệu trên internet do Wikipedia đưa ra.


Tổng số nô lệ công nhân VN sống ở ngoại quốc, theo chính sách, chủ trương của đảng mafia Hà nội càng gia tăng, do đó kiều hối vào tay đảng càng nhiều. Điều này đã minh chứng cho lượng kiều hối mỗi năm, mỗi gia tăng theo mức độ công nhân nô lệ xuất cảng. Đó cũng là chính sách bốc lột nô lệ dưới sự lãnh đạo của đảng VGCS Hà nội. Trong khi đó số người Việt di dân chỉ gia tăng do sự sinh sản, và số di dân theo dạng ODP mối năm vào khoảng 80.000 người. Số lượng trẻ sơ sinh, và số người mới di dân vào đất Mỹ, hay bất cứ quốc gia nào khác, chưa thể có khả năng làm ra tiền để gửi về CSVN cho thân nhân. Nói một cách chính xác hơn, lượng kiều hối gia tăng là do nguồn ngoại tệ từ nô lệ công nhân là căn bản. Do lẽ đó, thứ trưởng ngoại giao Nguỹên Thanh Sơn trước đây hai năm đã o bế, quyến dụ dân biểu Joshep Cao để được đối thoại với cộng đồng người Việt tỵ nạn giặc nội xâm Hà nội, nhưng đã phải ôm nhục vì bị trét 16 chữ vàng xú uế lên mặt. Tiến sĩ dởm, thứ trưởng ngoại giao chi chi lại ngu hơn bò. Tên Nguỹên Thanh Sơn gọi Joshep Cao là Hạ nghị sĩ, điều này hắn đã tự thú nhận, tự phơi bày sự thật về bản chất gian ác, ngu xuẩn. Hơn nữa dân biểu J. Cao chỉ đại diện cho một nhóm cử tri  rất nhỏ ở địa phương của bang Louisiana, chỉ có một số người Việt cư mgụ trong địa phương đó, đa số còn lại là dân da màu. Tên Nguỹên Thanh Sơn đã quá ngu dốt, chính ông ta đã vô tình làm mất uy tín của cựu dân biểu J. Cao. Trên thực tế, cựu dân biểu J. Cao cũng quá non tay chính trị, đã tự hũy diệt sự nghiệp chính trị vừa mới phôi thai. Ông ta đã sai lầm trong sự vận động cử tri, kể cả sự ủng hộ của cộng đồng người Việt tỵ nạn giặc nội xâm ở Mỹ. Ông J. Cao không thể vận động với bọn lãnh đạo VGCS Hà nội để được bầu vào hạ viện liên bang Mỹ, mà ông ta phải vận động, làm việc, đấu tranh cho quyền lợi của công dân Mỹ tại địa phương đã bầu ông ta vào hạ viện. Làm dân biểu liên bang Mỹ, không có nghĩa là làm dân biểu cho toàn liên bang, ông ta đâu có tư cách để đại diện cho tất cả cộng đồng người Việt tự do ở Mỹ, ngay dù J. Cao là nghị sĩ, cũng thế thôi. Ông J. Cao đã thiếu hiểu biết về quyền hạn, trách nhiệm của một dân biểu đại diện cho dân địa phương. Làm chính trị ở Mỹ, mà bắt tay móc nối với bọn lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng VGCS dưới bất cứ hình thức nào, cũng bị cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội ở Mỹ chống đối. Ông J. Cao thiếu bản lãnh chính trị, thiếu khôn ngoan, thiếu tầm nhìn, thiếu tư duy lý luận khi đối thoại với Nguỹên Thanh Sơn, một tiến sĩ dởm. Nếu theo lời Nguỹên Thanh Sơn là đúng, vì "J. Cao chỉ muốn đất nước CSVN giàu mạnh", trong khi đó sứ mệnh của ông là phải đấu tranh cho tự do, dân chủ, dân quyền ở VN nếu có thể, ngoài trách nhiệm chính của J. Cao là đại diện công dân Mỹ trong một địa phương nhỏ thuộc bang Louisisana, những cử trong địa phương đã bầu cho ông ta.


Ông J. Cao đã tạo ra cơ hội về VN, nhưng đã không nhìn thấy sự nghèo đói của dân đã bị đảng đánh cướp, bị ngục tù, bị gông cùm, mặc dù ông ta đã vượt biên chạy giặc cộng nô VGCS. Ông J. Cao là một tín đồ công giáo, nhưng đã thất bại trong  tinh thần tiếp giao với các chi thể, tổ chức cơ đốc giáo ở CSVN. Chuyến công du của ông J. Cao đã không đặt trọng tâm về sự đấu tranh cho tự do, dân chủ chính trị xã hội, tôn giáo, mà đặt sai lệch mục đích, nên không phản ảnh được xã hội chính trị, dân tình, mặt trái của chế độ. Đa số người Việt tỵ nạn VGCS, dù không về thiên đàng mù còn biết nhiều hơn là những người đã về VN. Thật đáng tiếc cho J.Cao, vì sai lầm trong tư duy, ý thức hệ, lập trường, mục tiêu đấu tranh cho chính nghĩa mà phải tự hũy hoại cơ hội chính trị ngàn năm một thuở. Những người làm chính trị như J. Cao dù một xu, cũng không xứng đáng để ủng hộ.


Sự kiện thực tế mà ai cũng biết rõ là  thế hệ đầu tiên trong cộng đồng người Việt chạy giặc VGCS Hà nội đang định cư ở Mỹ, mỗi năm mỗi già cỗi, số người về hưu mối năm một nhiều, do tình hình kinh tế suy trầm, khủng hoảng, số thất nghiệp gia tăng, nhà cửa xuống giá. Trong khi đó con cháu càng ngày càng lớn khôn, phải lên đại học, tốn kém rất nhiều, họ không còn có nhiều khả năng tài trợ để gửi tiền về VN cho thân nhân gần hay thân nhân xa. Còn thế hệ thứ hai trong cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội, cũng phải lo đấu tranh để sống còn, tình cảm của giới trẻ khá tự do, tự lập, tự lực cánh sinh. Họ chỉ có thể chăm sóc bố mẹ, anh em đang định cư tại Mỹ là quá tốt đẹp rồi, còn thân nhân hỏa tiển tầm xa ở bên ngoài nước Mỹ, thì quá xa vời. Như vậy lượng kiều hồi mỗi năm mỗi giảm. Và chắc chắn tình trạng này sẽ sụt giảm thảm hại hơn trong những năm tới. Do đó đảng và nhà nước VGCS Hà nội đã lo lắng bấn xúc xích, đã có chính sách phát động, đẩy mạnh các nguồn nhân lực, tài lực để vận động cho mục tiêu  xâm nhập, quấy phá  cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội. Họ đang học tập làm đúng theo kế sách của nghị quyết 36 do BCT đề ra từ mùa xuân năm 2004 để được có kết quả nhiều hơn qua các tên cộng sản nằm vùng, như trí thức vịt kìu, trí thức vịt trời nhiều hơn. Sự thật đã thấy rõ, là trí thức vịt kìu đã chán trò hề kịch bản bán nước buôn dân của chế độ. Vì họ đã mang tiếng xấu muôn đời về tội đồng loã với VGCS Hà nội, về tội đồ bán nước buôn dân, làm gia nô bưng bô cho giặc nội xâm Hà nội. Do đó hội nghị vịt kìu, vịt trời năm 2011 diễn ra  ở Đà Lạt thật trơ trẻn, buồn thảm, chỉ có tên  thứ trưởng Nguỹên Thanh Sơn và mụ phó chủ tịt nước chiêu đãi. Chỉ có một số vịt kìu về nước tham dự lèo tèo vào khoảng 150 người già nua, bịnh hoạn, khù khờ tầm cở Trọng Lú, Tư Sang.


Như vậy nguồn kiều hối từ đâu lại được gia tăng mỗi năm theo báo cáo của đảng? Như trên đã có những dữ kiện về tổng số công nhân nô lệ do đảng và nhà nước tạo ra một chính sách gà đẻ trứng vàng để có ngoại tệ dự trữ và tiêu xài hoang phí. Đảng cướp Hà nội phải dàn dựng ra chính sách bốc lột dân qua kế sách xuất cảng nô lệ, vừa cướp công, xương máu, mồ hôi, nước mắt, tiền của công nhân nô lệ, vừa tạo ra nguồn ngoại hối dưới mô hình bọ chét, chí rận hút máu công nhân nô lệ. Nếu chỉ tính tổng số công nhân nê lệ gồm có 1.000.000 người thôi, họ có khả năng gửi vể thiên đàng mù của đảng mỗi tháng 500 mỹ kim, thì mối năm đảng cũng có khả năng thu hồi 6 tỉ mỹ kim có dư.


Nhưng điều xấu hổ và ô nhục cho đảng VGCS Hà nội là tổng số công nhân nô lệ, phụ nữ lấy chồng xa, gái mãi dâm, buôn lậu đã làm cho hình ảnh đảng VGCS Hà nội bị thế giới khinh bỉ, chà đạp, vứt xuống vực sâu của hầm cầu. Người dân thế giới sẽ tự hỏi, nếu một nước phát triển, có văn hóa 4000 năm, sao lãnh đạo giòi bọ, rurồi nhặng VGCS lại sử dụng quốc sách xuất cảng nô lệ công nhân, nô lệ tình dục? Các lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng Hà nội phải tự hỏi, nếu vợ con họ phải đi làm nô lệ, làm ô-shin, làm điếm để nuôi họ, thì họ có xấu hổ, tủi nhục không? Làm lãnh đạo như Nguỹên Tấn Dũng, Trọng Lú, Tư Sang, Nguỹên Sinh Hùng mà phải sử dụng chính sách nô lệ công nhân, nô lệ tình dục để làm giàu, tự sướng thì còn tệ hơn loài cầm thú. Đảng và nhà nước VGCS Hà nội đã đi ngược thời gian, còn thua các nước Phi châu mấy trăm năm trước. Lãnh đạo giòi bọ VGCS Hà nội chỉ biết sống giàu sang trong tháp ngà, sống trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của dân dưới mọi hình thức mô hình nô lệ công nhân, nô lệ tình dục của phụ nữ, trẻ em. Họ đàn áp dân, bốc lột, gông cùm, ngục tù dân, nhưng lại hèn với giặc ngoại xâm. Họ vừa làm nô lệ cho Tầu cộng, vừa quì lạy, lòn cúi xin tiền quốc tế để bỏ vào các chương mục ở ngoại quốc là một điều dơ bẩn, xú uế, đầy tội ác, đáng tội chém đầu ba họ. Họ là bọn phản đồ bán nước, bán nô lệ, làm đất nước tụt hậu, bại hoại văn hóa, xã hội đồi trụy, làm dân đói nghèo đời đời không ngóc đầu dậy được. Tất cả ý đồ, dự án phát triển của chế độ VGCS Hà nội không ngoài mục đích ăn tiền hoa hồng, phong bì, rút ruột các dự án, công trình, bất chấp lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội về lâu về dài. Điển hình như dự án Bauxite Tây Nguyên, các đập thủy điện,  tàu sắt cao tộc Shinkansen,  các lò điện năng nguyên tử, các đường lộ cao tốc Đông Tây ở Saigon.... Nhưng lịch sử thế giới đã minh chứng là không có bọn độc tài, độc đảng nào tồn tại mãi mãi, chắc chắn họ sẽ nhận lãnh hậu quả thảm khốc như Saddam Hussein của Iraq, Gadaffi của Libya. Ngày tàn của lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng ác ôn, côn đồ Ba Dũng, Trọng Lú, Tư Sáng... trước sau gì cũng sẽ đến thôi. Đó cũng là Ý Dân và Ý Trời.


Điều làm cho mọi người ngạc nhiên là theo báo cáo của đảng và Ngân Hàng Thế Giới, WB, gần đây thì có trên 50% nguồn kiều hối, gần 9 tỉ mỹ kim năm 2011 đã được đầu tư vào bất động sản ở Saigon, và Hà nội. Thế nà thế lào? Điều này thật khó hiểu. Nếu kiều hối do người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội gửi về, bình thường phân bố lẽ tẻ, với số lượng rất khiêm tốn, vì trong cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội, không có mấy người giàu có đến độ gửi tiền triệu, tiền tỷ về cho thân nhân để đầu tư. Nhất là đầu tư trong lãnh vực bất động sản ở thiên đàng mù đầy dẫy bất công, không có tự do, dân chủ, và nhất là ở đó chỉ có chính thể cộng sản, gian trá, chỉ biết xài luật rừng rú, man rợ. Hơn nữa qua các dữ kiện thực tế, người Việt tuỵ nạn VGCS về thiên đàng mù đầu tư, trước sau gì cũng bị đảng cướp mafia đánh cướp trọn gói, ôm đầu máu đào thoát để khỏi bị giết chết. Làm ăn với VGCS là vậy đó, đã có hàng trăm vụ, sự việc đã xảy ra. Điều khó hiểu là thực trạng bất động sản ở Mỹ đang xuống dốc thảm hại, nếu họ có tiền, đâu có nhà đầu tư Việt nam tỵ nạn VGCS lại điên rồ đầu tư ở thiên đàng của bọn khủng bố, bọn cướp ngày, như đã có truyền thống, cộng sản theo định nghĩa là một loại khủng bố, kiểu Bin Laden, đệ tử của Hồ Chí Minh. Trong cộng đồng người Việt tỵ nạn, không phải không có nhà đầu tư về địa ốc. Nhưng họ đã quen với phương thức làm ăn quang minh chính đại, có luật pháp, có bảo hiễm, có luật sư, mọi sự đâu ra đó, trên giấy trắng mực đen. Các nhà đầu tư địa ốc ở Mỹ, không ai tin là họ có thể chấp nhận luật rừng ở CSVN để bỏ tiền triệu, tiền tỷ  mỹ kim để đầu tư vào bất động sản ở trong tay quyền lực của những tên bạo chúa, cách xa nửa vòng trái đất. Vấn đề này, ngoài đảng viên, con cháu đảng viên có quyền lực ra không ai muốn bỏ tiền đầu tư như vứt qua cửa sổ.


Như vậy, ai là nhà đầu tư địa ốc có hàng trăm triệu để đầu tư bất động sản ở thiên đàng mù, chỉ biết xử dụng luật rừng rú, man rợ? Như chúng ta biết, chuỗi từ ngữ  “người Việt ở ngoại quốc” do VC xử dụng quá khác biệt với cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội, nhất là sau khi giai cấp tư bản đỏ đã hình thành và được tự do xuất ngoại theo dạng di tản du học, đầu tư ngoại quốc. Do đó các nhóm lợi ích kinh tế, xã hội, doanh nhân của giai cấp tư bản đỏ VGCS Hà nội lưu trú tại Mỹ, hay các nước khác không ít. Cũng còn có rất nhiều sư vãi, linh mục, gia sư, giáo sư khoác áo thiền sư, vịt kìu “iêu nước” phở. Con cháu của nhóm lợi ích kinh tế, xã hội VGCS Hà nội có rất nhiều tiền ở ngoại quốc, điển hình như cha con Nguỹên Tấn Dũng, Nông Đức Manh ...và các đảng ủy viên trung ương đảng, Bộ chính trị.... Đầu tư bất động sản, do chính họ thao túng thị trường, tự họ bơm tiền vào để làm giá bất động sản do chính họ đã đánh cướp đất của dân, của giáo xứ, của các tôn giáo khác, các đảng phái chính trị khác. Cái luật lệ cho vịt kiều đầu tư, mua nhà đất cũng do chính họ tự dàn dựng ra để làm nền móng cho con cháu, vịt kìu nằm vùng, các nhóm lợi ích kinh tế, xã hội doanh nghiệp đầu tư. Họ vừa cò mồi, vừa xử dụng tiền ăn cắp, ăn cướp của dân, của các dự án, của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp. Các quan chức đầu sỏ trong tập đoàn Vinasink trong ý đồ mua tàu cũ, máy móc cũ, cũng không ngoài mục đích chuyển tiền ra ngoại quốc, để tập đoàn Vinasink phải vỡ nợ, và bị đưa ra tòa. Trên thực tế, bọn quan chức Vinasink đã ăn cắp tiền, gửi ở các ngân hàng ngoại quốc, đề con cháu họ thừa hưởng.


Nói tóm lại nguồn kìu hồi do Vịệt cộng cung cấp là có thật, nhưng không phải do cộng động người Việt tỵ nạn gửi về, mà do công nhân nô lệ là chính, thứ đó la do con cháu của các nhóm lợi ích kinh tế, xã hội, doanh nghiệp VGCS gửi về đề đầu tư qua các dự án, và để vay tiền qua các nguồn viện trợ không hoàn trả, hay chỉ trả với lãi xuất rất thấp. Điều này đã được ngân hàng quốc tế hé mở, và tên  thứ trưởng Nguỹên Thanh Sơn bật mí về số tiền đầu tư nhiều tỉ mỹ kim do người Việt ở nước ngoại gửi tiền về đầu tư. Trong bài viết mới đây nhất trên mạng www.bayvut.com, bà Phạm Chi Lan một chuyên viên về kinh tế tài chánh của nhà nước cũng đã lên tiếng bao che cho sự kiện kiều hối do người Việt ở hải ngoại gửi về đầu tư vào bất động sản. Cộng động người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội nên cảnh tỉnh về hai ý đồ của VC đang vận động, cổ vũ cho mục đích gửi tiền về thiên đàng mù, và du lịch ở vùng đất đầy ô nhiếm, bất công, đầy áp bức, gông cùm, tù ngục. Nói cách khác đa số du lịch Việt nam về thiên đàng mù, là đám công nhân nô lệ ở Đông Âu, du sinh con ông cháu cha VC,  nhân viên các sứ quán, lãnh sự quán Vịêt khấu đi đi về về thường xuyên để buôn lậu, mua bán đô la, mua bán vàng, hóa phẩm, dược mỹ phẩm, và một số đàn bà VN lấy chồng xa về VN thăm bố mẹ, anh em. Trên thực tế, cộng đồng người Việt tỵ nạn VGCS Hà nội về thiên đàng mù hiện tại rất hạn chế, đa số là thợ nails, kỹ sư dởm, tiến sĩ dởm và một số trí thức vịt kìu ham hầu nhí, ham bùm bùm, điển hình như luật sư Liếm ở San José đã tự thú là đã bị vợ cảnh cáo, vì không muốn hắn ta bị chết vì bịnh HIV/AIDS. Luật sư này chắc cũng thuộc loại cà rỡn không có thân chủ nên mới có quá nhiều thời giờ cà rỡn du hí ở CSVN dưới cái nón cối dạy triết học.


Sự thật về thực trạng xuất cảng công nhân nô lệ, dưới mô hình xuất cảng lao động, hay xuất cảng phụ nữ lấy chồng xa trong chính sách căn bản của cơ chế VGCS Hà nội đã phơi bày như một bức tranh tổng thể về sự bốc lột xương máu của dân đen. Đồng thời chính sách bần cùn hóa dân đen của cơ chế VGCS Hà nội cũng đã nói lên về bản chất, truyền thống phong kiến xa xưa về vấn nạn buôn bán nô lệ. Nói rõ ràng hơn, bức tranh xuất cảng công nhân nô lệ, phụ nữ nô lệ tình dục của chế độ VGCS Hà nội đã phơi bày thực trạng đói nghèo của các nước Phi châu trước đây vài trăm năm. Đấy là một điều ô nhục, xấu xa tồi tệ cho bọn lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng VGCS Hà nội. Đấy cũng là một điều nhục nhã cho các quan trí thức vịt kìu, vịt trời trong thư ngỏ do nhà giáo Lê Xuân Khoa đạo diễn, và cho nhóm trí thức gia nô thân cộng của tiến sĩ vinh danh, ủy viên MTTQ Trần Văn Thọ của đại học Waseda, Tokyo. Thiển nghĩ, tiến sĩ vinh danh, ủy viên MTTQ Nguỹên Trọng Bình ở San Diego, và khoa học dza vịt kìu Nguỹên thị Quí ở Melbourne chắc đã sáng mắt ra, sau khi biết rõ nguồn kiều hồi không phải do cộng đồng người Việt chạy giặc nội xâm Hà nội chủ động gửi về. Trí thức mà chỉ biết ăn theo, nói theo cơ chế bán nước buôn dân, là tự mình khỏa thân, cởi trần truồng cho độc già ghê tởm, phỉ nhổ, nôn mửa, thổ tả vào mặt vì đã quá hèn nhát, lú lẩn, nhất là các trí thức này cũng đã ở trong tuổi cao niên, về hưu, lại càng ô nhục, xú uế hơn.


Trong tương lai không xa, vấn đề kiều hối sẽ được nhiều người quan tâm nhiều hơn, chắc chắn sự thật trước sau gì cũng sẽ được phơi bày minh bạch hơn. Điều chắc chắn là lượng kiều hối từ nguồn cộng đồng nggười Việt tỵ nạn cộng sản vượt biên bằng mọi giá đã sụt giảm thảm hại, và đã làm cho đảng và nhà nước lo lắng, ăn ngủ không yên. Do đó họ đang có chính sách khai thác, vận động cổ vũ, đẩy mạnh sao cho nghị quyết 36 không bị chôn vùi dưới đầm cát lún. Đấy cũng là cơ hội để cho bọn vịt kìu, vịt trời, ếch riêu gia nô bưng bô a dua, sủa theo cái bóng của nghị quyết 36.


Sau cùng, người viết bài này cũng có quyền tự do nói thẳng với ông Nguyễn thanh Sơn, và các đầu sỏ của của BCT đảng cướp Hà nội là đảng CSVN chỉ là một đảng cướp không hơn không kém. Vì lợi ích dân tộc của hơn 85 triệu dân VN trong nước, không kể hơn 3 triệu đảng viên  đảng cướp mafia, và lợi ích của gần ba triệu người Việt quốc gia tỵ nạn giặc nội xâm Hà nội, cộng đồng người Việt ở Mỹ chỉ đối thọai với với các đại diện các nước, đảng phái phi cộng sản, biết tôn trọng luật pháp, dân có đủ mọi quyền tự do, dân chủ và nhân quyền. Cộng đồng người Việt tự do ở Mỹ dứt khoát không đối thoại với người của chế độ VGCS Hà nội, vì họ chỉ là một đảng cướp, đã có truyền thống thành tích từ tám (8) thập niên qua. Ông Nguyễn Thanh Sơn và lãnh đạo giòi bọ, ruồi nhặng VGCS Hà nội nên hiểu rõ là tất cả sự phát triển, xây dựng cao ốc, lầu đài trên đầm cát lún chỉ là hào nhoáng nhất thời, chẳng khác gì lớp áo, son phấn của con điếm già mang bịnh HIV/ AIDS, nội tạng đầy ung nhọt thối rữa nhầy nhụa. Sự phát triển dưới mô hình VGCS Hà nội không ngoài ý đồ, mục đích ăn cắp, ăn cướp, quỵt nợ như bọn tập đoàn kinh tế doanh nghiệp Vinasink, tập đoàn Than khoáng, tập đoàn Điện, Ngân hàng... Sự phát triển trong ý đồ bóp chết tự do, dân chủ, giết chết nhân quyền, gông cùm, ngục tù, thủ tiêu đối lập thì có khác gì tự đào cái hố sâu thẳm để tự hũy diệt và tự chôn mình.


DTK








----- Forwarded Message -----
From: Dan Khuongtu
To: btgv qhvn-3 ; btgvqhvn-2 ; btgvqhvn-1 ; phong le ; chaut nguyen ; tuoc luong ; cat duong ; canh quan ; exryu vannghe ; Bao Legia ; Dzung T  
Sent: Wednesday, December 14, 2011 2:32 PM
Subject: Mặt trái của nguồn kiều hối do thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn lếu láo





No comments:

Post a Comment