Tuesday, January 24, 2012

Trần Huỳnh Duy Thức: Diễn Biến Hòa Bình hay Cách Mạng Cạm Bẫy

Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng (tiếp theo)
Kính gửi: Dân Làm BáoTôi là Trần Văn Huỳnh, cha của Trần Huỳnh Duy Thức.Tôi xin được gửi đến quý báo một phần khác được trích từ quyển sách Hành Trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Thức đang viết dang dỡ. Nói thật là tôi đã nhiều lần không cầm được nước mắt khi dịch quyển sách này. Rõ ràng là Thức biết trước được những rủi ro lớn từ việc mình làm nhưng vẫn dấn thân vì nghĩ đến nhiều người.Do vậy tôi mong Danlambao giúp phổ biến trích đoạn này để giúp tôi phần nào làm được gì đó cho tâm nguyện của con mình.Xin chân thành cảm ơn.Nhân dịp Xuân Nhâm Thìn sắp đến, tôi cùng gia đình xin chúc quý báo AN KHANG, THỊNH VƯỢNG và HẠNH PHÚC.Trần Văn Huỳnh***

Bấm vào đây để đọc Bài 1 đã đăng
***
Bản dịch tiếng Việt:
Diễn Biến Hòa Bình hay Cách mạng cạm bẫy[i]
Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng (tiếp theo)
Liệu một hình thái xã hội nào đó có gắn chặt với một thuộc tính bất biến của nó, chẳng hạn như "bản chất của chủ nghĩa tư bản là xấu xa và người bóc lột người", hoặc "bản chất của chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa cộng sản là tốt đẹp và luôn vì nhân dân"?
THUỘC TÍNH, BẢN CHẤT VÀ QUY LUẬT
Chỉ có những yếu tố nào được định tính bởi Tạo hóa mới có tính bất biến - chính là bản chất của chúng. Con người không thể kiểm soát hoặc thay đổi các bản chất này, chẳng hạn như các nguyên tố hóa học, trọng lực và quyền con người. Tất cả thuộc tính của những gì con người có thể kiểm soát được thì luôn có thể thay đổi, tùy thuộc vào thời đại, sức mạnh con người và quan trọng nhất là vào luật lệ liên quan của Tạo hóa. Ví dụ, con người có thể sản xuất nhiều loại thép khác nhau: rỉ hoặc không rỉ; những chiếc máy bay khác nhau: cánh quạt hoặc phản lực; và những xã hội trái ngược nhau: cường quyền -> tham nhũng -> nghèo khổ -> lạc hậu hay dân chủ -> công bằng -> thịnh vượng -> văn minh. Con người sáng tỏ và tuân thủ càng nhiều quy luật tự nhiên và kiến thức của các quy luật này thì thép, máy bay và xã hội được làm ra càng tốt, và càng có nhiều người chấp nhận các sản phẩm của mình một cách thuyết phục. Nói một cách chính xác, Sức mạnh của nhân loại tùy thuộc và tỷ lệ thuận với sự hiểu biết của con người về các quy luật của Tạo hóa. Đây là sức mạnh chính đáng và bền vững.
Sự phát hiện của Newton về quy luật Vạn vật hấp dẫn đã không chỉ khai tử chân lý áp đặt sai lầm của Giáo hội La Mã: "mặt trời xoay quanh trái đất" và kéo theo tòa án dị giáo phục tùng của nó, mà còn khởi tạo nên một sự khai sáng vĩ đại về thế giới vật lý cho nhân loại, rồi dẫn đến cuộc Cách mạng Khoa học Kỹ thuật. Và sự thịnh vượng của thế giới đã phồn vinh vô số kể từ sau sự ra đời của "Sự thịnh vượng của các quốc gia" - một tuyệt tác của Adam Smith đã giúp cho con người hiểu rõ các quy luật tự nhiên về kinh tế. Ông gọi chúng là "hệ thống tự do tự nhiên" mà sau đó được áp dụng rộng rãi bởi nhiều nước tư bản chủ nghĩa một cách rất thành công dưới thuật ngữ ngày nay: "các nguyên lý kinh tế thị trường tự do". Do vậy, một số người tôn Adam Smith là người sáng lập của chủ nghĩa tư bản. Nhưng đây là một ý kiến sai. Ông đã không khởi xướng một học thuyết cho cho một chủ nghĩa trong quyển "Sự thịnh vượng của các quốc gia" của mình, và thuật ngữ chủ nghĩa tư bản chỉ xuất hiện gần một thế kỷ sau tác phẩm của ông. Thay vào đó, ông đã tìm ra những động lực kinh tế nằm ở đâu; chỉ ra cách các động lực này vận hành và làm sao để điều khiển chúng; chính phủ nên làm sao và không nên can thiệp như thế nào để đảm bảo chúng vận hành đúng đắn và tự nhiên (tức là theo đúng bản chất của chúng). Tất cả những điều này bàn đến các quy luật về bản chất của kinh tế, hoặc những nguyên lý của các bản chất kinh tế.


THUỘC TÍNH BIẾN ĐỔI VÀ LÝ TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA


Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản không hề được hình thành bởi một bản tuyên bố của một học thuyết được định dạng hoặc đóng khuôn sẵn, đặt ra các quy tắc áp đặt cứng nhắc đối với những người theo nó. Mà nó được thành hình tự nhiên, tức là những ai ủng hộ nó đã tôn trọng các bản chất của kinh tế và những sự tiến hóa diễn ra theo các quy luật của các bản chất này theo chiều hướng của các hoạt động phổ biến. Làm như vậy từng bước, nó đã dần hình thành nên nhiều hình thái xã hội (không chỉ một cái duy nhất) có tên chung là tư bản chủ nghĩa (gợi liên quan đến người sở hữu vốn) và có chung các luật lệ cốt yếu nhằm ủng hộ sở hữu tư nhân để khuyến khích động lực cá nhân cho sản xuất hàng hóa hay dịch vụ vì lợi nhuận, duy trì thị trường tự do cạnh tranh để bàn tay vô hình điều tiết các hoạt động kinh tế, và điều tiết những gì bàn tay vô hình không phát huy tác dụng. Dù đã lan rộng khắp thế giới, xây nên nhiều quốc gia dân chủ và thịnh vượng với sự đa dạng theo thời đại, văn hóa, chính trị, địa lý, tuy vậy những người theo nó đã tạo ra nhiều phiên bản bị lỗi như: những công xưởng bóc lột khắc nghiệt ở Châu Âu và chế độ nô lệ đáng xấu hổ ở Mỹ vào nửa đầu thế kỷ 19, hoặc rất nhiều chính phủ tư bản thân hữu tham nhũng như hiện nay.


Do vậy, rõ ràng là không có thuộc tính bất biến được gắn liền với một hình thái xã hội nhất định và được quyết định bởi học thuyết của nó hoặc chỉ đơn giản bằng cái tên của nó. Thuộc tính của nó sẽ không bao giờ là một tính chất hay đặc trưng được định trước hoặc bẩm sinh, mà là một thuộc tính biến đổi theo mức độ tuân thủ của người dân đối với các luật lệ của Tạo hóa và các hoạt động của họ, đặc biệt là của những người nắm quyền lực. Lịch sử đã cho thấy nhiều ý thức hệ vốn được ra đời bởi thiện chí và lòng tốt của những người khởi xướng, nhưng đã kết thúc bằng những sự tồn tại ngày càng tệ hại, gây tai họa tràn lan cho cả triệu dân. Đó là do lỗi bẩm sinh lúc thiết kế ra chúng không phù hợp với các nguyên lý tự nhiên hoặc do sự chủ quan áp đặt của những người thực hiện chúng vi phạm tính khách quan của các nguyên lý này. Đó chính là trường hợp của chủ nghĩa Mác và sự thực hiện nó của Lê Nin. Do vậy, không thể nói rằng bản chất của chủ nghĩa cộng sản hoặc chủ nghĩa xã hội là tốt hay xấu. Các thuộc tính của những biểu hiện khác nhau của nó có lúc xấu và tốt nhưng người ta có thể nói rằng lý tưởng, và chỉ là lý tưởng của nó mãi tốt đẹp và vì nhân dân. Tuy nhiên, lý tưởng không phải lúc nào cũng khớp với thực tiễn, chỉ những lý tưởng nào tìm ra con đường đúng thì mới khớp được.


MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI


Những hình thái xã hội chủ nghĩa tốt nhất mà con người từng được chứng kiến chính là các nền dân chủ xã hội đã được phát triển thành công ở các nước Bắc Âu. Mô hình này được sáng lập bởi những người ngưỡng mộ lý tưởng vì giai cấp công nhân của Mác và những khái niệm phân phối công bằng cho đại chúng của ông, nhưng xét lại và phê bình một cách khoa học phương thức sản xuất và cách thức giải quyết mâu thuẫn giai cấp của ông. Họ thừa nhận sự phân hóa giai cấp kinh tế giữa giới tư sản và vô sản, nhưng cho rằng vấn đề này sẽ được loại trừ nhờ vào những cải cách pháp luật và các chương trình tái phân phối. Họ tin rằng chuyên chính vô sản sẽ làm trầm trọng hơn các quan hệ xã hội, rằng những cải cách dân chủ dần dần sẽ tăng cường quyền và lợi ích cho giai cấp công nhân. Họ tranh luận với Lê Nin về "đấu tranh giai cấp" của Mác, ở đó họ bác bỏ sự sai trái của phương pháp của Lê Nin sử dụng bạo lực để đánh đổ các tầng lớp trên với hy vọng vực dậy giai cấp vô sản. Họ thấy trước rằng cách đó sẽ dẫn đến những sự hủy diệt đẫm máu và sự tàn phá xã hội để đổi lấy một tình trạng đấu đá bị kềm nén. Họ lập luận rằng đấu tranh giai cấp chỉ có thể tạo ra động lực cho phát triển như Mác mong muốn chỉ ở nơi nào các tầng lớp dưới có được những cơ hội tử tế trong cuộc sống để không ngừng tự cải thiện chính mình cho cuộc sống tốt hơn hoặc để vươn lên tầng lớp cao hơn nhờ vào một quá trình dân chủ. Đây chính là những động lực chính đáng và lâu dài, không phải là những động lực từ hận thù nhất thời. Họ từ chối kiểu xã hội chủ nghĩa bằng cách mạng bạo lực và ủng hộ kiểu cải cách mà từ đó phát triển nên một khái niệm mới: Chủ nghĩa xã hội dân chủ xã hội. Chủ nghĩa này bảo vệ các quy luật kinh tế thị trường để xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội, bảo hộ việc tái phân phối thành quả tăng trưởng, đảm bảo cơ hội công bằng và luật chơi sòng phẳng, cho phép doanh nghiệp tư nhân và hỗ trợ quyền sở hữu, v.v...


Mô hình này có nguồn gốc vào những năm đầu của thế kỷ 20 từ phái Men-sê-vich mà sau đó đã bị Lê Nin phản đối và đặt ngoài vòng pháp luật sau cách mạng tháng 10 năm 1917. Chính quyền Xô Viết gán cho nó là "chủ nghĩa xét lại" và "phản động". Từ này từ đó trở thành thuật ngữ tội phạm phổ biến nhất được dùng để trừng phạt bất kỳ ai làm, hoặc chỉ nói, khác với những tín điều của phái Bôn-sê-vích của Lê Nin, bóp nghẹt tất cả mọi phản động theo nghĩa đúng đắn bình thường của từ này[ii]. Ở những đất nước tán thành giáo lý của Lê Nin, từ phản động làm cho người dân khiếp sợ và ăn sâu vào lòng họ, tận diệt tất cả mọi chỉ trích đối với chính quyền cùng với những ý tưởng sáng tạo mới không thể thiếu để phát triển đất nước. Người dân ở những nước văn minh gần như không bao giờ hiểu được vì sao phản động lại có thể là một vấn đề, chứ đừng nói là phạm tội.


Dân chủ xã hội đã sinh sôi ở Bắc Âu từ sau kết thúc Thế chiến II, các đảng theo xu hướng này đã nắm quyền thông qua các cuộc bầu cử dân chủ. Dù không lóe sáng như ở Liên Xô nhưng mô hình này phát triển yên bình, ổn định và bền vững thành những xã hội tốt nhất và ngày càng tốt hơn trên cả thế giới. Đó là Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan - cũng là những quốc gia dân chủ, thịnh vượng và văn minh nhất. Các hình thái xã hội thành hình trên thực tế của những nước này có nhiều điểm giống nhau nhưng không phải là đồng nhất, và không hoàn toàn giống với cái mà Eduard Bernstein[1] và các lý thuyết gia về tư tưởng dân chủ xã hội mong muốn. Tuy nhiên, những hình thái này có chung nguyên lý cốt lõi: bảo vệ trước tiên và tối thượng quyền con người, ủng hộ có quan sát kinh tế thị trường, kiên quyết duy trì một nền dân chủ thực chất để đảm bảo rằng các quyết định chính trị là thực sự vì đại chúng, chống lại những cuộc cách mạng bạo lực hoặc sự áp đặt từ trên xuống. Những nguyên tắc này xây dựng nên một nền tảng để tôn trọng các quy luật của các bản chất của con người - đối tượng chính của xã hội. Cho nên nó đã tạo ra những thành tựu đáng ngưỡng mộ và bền vững - chính là kết quả của sự tiến hóa yên bình của các hoạt động của nhân dân dựa trên nền tảng này (tức là dưới sự vận động của các quy luật nói trên), tiến dần đến những điều cao đẹp mà lý tưởng của tư tưởng này mong muốn. Mô hình này do vậy còn có một tên chính thức khác: chủ nghĩa xã hội tiến hóa, tương phản với chủ nghĩa xã hội cách mạng vốn đã từng lóe sáng ở Liên Xô rồi kết thúc trong tàn lụi. Nguyên nhân sâu xa của thất bại này vì Liên Xô đã chống lại các quy luật tự nhiên của Tạo hóa, tự đại thay thế các quy luật này bằng những luật lệ chủ quan của mình.


DIỄN BIẾN HÒA BÌNH . . .


Trung quốc và Việt Nam đang tái diễn lại sai lầm này vì họ không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ để có được một môi trường xã hội hỗ trợ cho một nền tảng như đề cập ở trên. Một chính thể như vậy sẽ cân bằng mối quan tâm của xã hội giữa những nhóm lợi ích khác nhau vốn luôn tồn tại cho dù luật pháp có thừa nhận hay không. Việc chạy ảnh hưởng của các nhóm này sẽ được diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật để ngăn ngừa việc đưa và nhận hối lộ làm băng hoại các quan hệ xã hội. Chính thể này cũng sẽ không tước đoạt tự do của báo chí mà ngược lại, giao phó đầy đủ trách nhiệm cho nó phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống một cách đa chiều, ngăn ngừa và đem ra ánh sáng những phi vụ lén lút. Nó cũng sẽ trao quyền cho công dân buộc những người đang nắm quyền phải giải trình.


Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này, tội phạm hóa nó bằng thuật ngữ "diễn biến hòa bình". Lịch sử đang lặp lại. Thuật ngữ này bây giờ đóng vai trò như từ "phản động" trong thời đại của Liên Xô, đàn áp tất cả mọi sáng kiến nhằm tiến hóa đất nước đến sự giàu đẹp một cách hòa bình và trừng phạt ngay cả những người đầy thiện chí để đổi lấy nhiều tràn lan các quan chức tham nhũng và tha hóa, sự suy thoái đạo đức xã hội, những người dân khiếp sợ và mất tự tin. Người dân văn minh thật khó mà hiểu được vì sao các hành động hòa bình lại không được khuyến khích, chứ đừng nói là có thể bị buộc tội. Lịch sử đang lặp lại không chỉ giai đoạn tương tự này.


Nhìn trở lại thời kỳ chiến tranh lạnh. Vào đầu thập kỷ 1970, khi thế giới thứ nhất, hoặc thế giới của các nước dân chủ và thịnh vượng, đang cố gắng thắt chặt quan hệ hơn với Trung Quốc nhằm kéo nước này khỏi nền kinh tế kế hoạch tập trung, thì Liên Xô đã xuất hiện các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhưng khéo léo che đậy về kinh tế và xã hội. Kinh tế thị trường đã chiếm ưu thế và gặt hái thành quả ở thế giới thứ nhất, nên nó được thúc đẩy cho những nước đang phát triển. Chưa đầy 20 năm sau, Trung Quốc đã phấn khởi hưởng thụ thành tựu của nó - đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi nghèo túng. Việt Nam theo sau và nhờ vậy đã tránh được một sự sụp đổ dường như không dừng được. Trong khi đó, Liên Xô không chịu thay đổi, cự tuyệt kinh tế thị trường vì bị cho là một mưu đồ ngấm ngầm của các đối thủ và thế lực thù địch nhằm lật đổ nó bằng diễn biến hòa bình, tấn công từ bên trong. Thế giới thứ nhất càng thúc đẩy thì Liên Xô càng không chịu thay đổi. Trong cùng thời gian đó, nó bị kéo vào một cuộc đua vũ trang bởi chương trình Chiến tranh các vì sao của Mỹ. Nhờ có kinh tế thị trường nên ngân sách quốc phòng đầu tư cho chương trình này đã kích thích nền kinh tế Mỹ phát triển. Trong lúc đó, vì không có kinh tế thị trường nên nguồn lực của Liên Xô bị cạn kiệt nghiêm trọng và ngày càng nặng bởi sự gia tăng liên tục của phí tổn quốc phòng. Khi nó nhận ra vấn đề và căn nguyên thì đã quá muộn. Goóc-ba-chốp đã cố gắng cải tổ kinh tế trong tuyệt vọng. Việc này đã dẫn đến một cuộc đảo chính lật đổ ông ta và không lâu sau đó là sự tan rã toàn diện của người khổng lồ Liên Xô và kẻ bắt nạt kinh hoàng của nó - Cơ quan an ninh KGB.


...HAY LÀ CUỘC CÁCH MẠNG CẠM BẪY


Những biểu hiện khác nhau nhưng cùng quy luật của bản chất. Thế giới thứ nhất hiện nay thúc đẩy nhân quyền và dân chủ thay vì kinh tế thị trường như trước đây. Toàn cầu hóa bây giờ thay thế cho chạy đua vũ trang. Toàn cầu hóa đòi hỏi buộc phải có một nền tảng tự do và dân chủ để, tương tự như kinh tế thị trường, tự động điều chỉnh tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị trong một môi trường được toàn cầu hóa. Không có một nền tảng như vậy, một đất nước sẽ không thể tự điều tiết bằng con người tất cả mọi vấn đề trên để làm cho chúng vận hành tốt, nên cuối cùng sẽ làm khô cạn mọi nguồn vốn quốc gia, cả vốn tiền và vốn người. Đây là phí phải trả rất nghiêm khắc cho sự vi phạm các luật lệ của Tạo hóa - một sự tương tự với chạy đua vũ trang mà không có kinh tế thị trường nói trên - đó là điều không thể tránh khỏi. Đơn giản vì đó là kết quả của sự tiến hóa (hay diễn biến) theo quy luật.


Kết cục cũng sẽ là một sự sụp đổ hay tan rã chế độ nếu chế độ đó không sớm thừa nhận sai lầm, tiếp tục cự tuyệt tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách chân thành để có được một nền dân chủ thực chất. Điều này có vẻ như là kết quả của một "cuộc cách mạng cạm bẫy" hơn là "diễn biến hòa bình". Nếu cái bẫy đó là có thật thì có lẽ nó đã được gài bởi chính tự thân Liên Xô hoặc bất kỳ nước nào áp dụng kinh tế thị trường đồng thời với từ chối quyền con người, tức vi phạm quy luật của bản chất khách quan. Có rất nhiều nước như vậy, trải từ Á sang Phi, Mỹ La Tinh và cả châu Âu, do đảng cộng sản cầm quyền hoặc không, bao gồm nhiều hình thái nhà nước khác nhau có hoặc không có học thuyết chủ nghĩa; xã hội chủ nghĩa hoặc không, quân chủ hay cộng hòa. Trong số này nổi bật là: Trung Quốc, Li Bi, Việt Nam, Venezuela, Ả Rập Xê Út, Iran và cả Nga.


Tạo hóa sẽ thu nghiêm khắc phí vi phạm luật lệ của Tạo hóa mà không cần biết đến địa lý, ý thức hệ hoặc bất kỳ hình thái nào do con người tạo ra. Cái luật này được áp dụng bình đẳng cho mọi nơi, mọi người mà không có ngoại lệ, và không có sức mạnh nào của con người có thể chống lại chúng. Con người chỉ có thể phát hiện chúng, làm sáng tỏ chúng, áp dụng chúng đầy đủ để tạo ra sức mạnh cho mình, và PHẢI thuận theo sự tiến hóa (tức diễn biến) của chúng. Thảm họa có thể giáng xuống không chỉ những người có trách nhiệm phải trả cho nó mà còn cho cả những người vô tội. Hậu quả của giáo điều.


LỰC VÀ ĐỘNG LỰC TỰ NHIÊN


Dân châu Âu đã thoát được thảm họa giáo điều của tòa án dị giáo nhờ sự khai sáng của Newton. Hàng tỷ người trên thế giới thoát khỏi thảm họa đói khổ nhờ Bàn tay vô hình của Adam Smith. Đây là những phát hiện vĩ đại nhất của nhân loại. Sự vĩ đại là ở chỗ tìm ra được các lực tự nhiên trong thế giới vật lý và động lực tự nhiên trong thế giới kinh tế. Chính các bản chất này - lực và động lực đã giúp con người tạo nên sức mạnh phi thường, làm nhân loại tiến nhảy vọt từ đó.


Hẳn phải có những lực và động lực và các quy luật của chúng trong thế giới của các vấn đề toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị mà con người nên hiểu rõ để tránh được thảm họa phi dân chủ từ sự giáo điều tương tự, và để các nước đang phát triển tăng trưởng nhanh chóng tham gia thế giới dân chủ, thịnh vượng, và đương nhiên là văn minh nhờ đó.
Tìm kiếm các bản chất và quy luật đó là nỗ lực của quyển sách này và sẽ được làm sáng tỏ ở những phần kế tiếp.


Nguyên bản tiếng Anh có một số lỗi nhưng giữ đúng nguyên bản.


Tác giả : Trần Huỳnh Duy Thức
Người dịch : Trần Văn Huỳnh

Anh Trần Huỳnh Duy Thức (đứng giữa)


Nguyên bản tiếng Anh:


PEACEFUL EVOLUTION OR PITFALL REVOLUTION[iii]

HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY (continue)


Whether does a certain form of society stick on a constant attribute, such as ''the nature of capitalism is bad and exploiting of man by man''' or ''the nature of socialism / communism is good and always for people''?


ATTRIBUTE, NATURE AND PRINCIPLE


Only elements that are attributed by The Creator hold constant attributes which are literally their substances or natures. These are uncontrolled or unchanged by the human, such as chemical elements, forces of gravity and human rights. All the attributes of what can be controlled by the human are always changeable, depending on time, human's strength and most importantly on The Creator's law related. For example, man can make up various kinds of steel: stain and stainless; different airplanes: propeller-driven or jet; and contrary societies: tyrannous -> corrupt -> destitute -> backward or democratic -> equal -> prosperous -> civilized. The more natural principles and their knowledge that man can unravel and obey, the better steel or airplane or society he's able to make, and the more people would buy his product convincingly. Statistically speaking, The strength of human kind depends and proportionally grows with the human race's discernment of The Creator's laws. It's the legitimate and sustainable strength.


The Newton's discovery of Universal law of gravitation had not only proclaimed the demise of Roman Catholic church's erroneously imposed truth of ''the sun rotates around the earth'' and thus its amenable inquisition, but initiated the great enlightenment for human kind of the physical world and thus the Technical Revolution. And the wealth of the world has astronomically thrived since the birth of ''The Wealth of nations'', an Adam Smith's masterpiece that helps people discern the natural principles of economic. He termed them as ''system of natural liberty'' that has been widely applied by many capitalist countries very successfully, under the today term ''free market-economy rules''. It's why some credited Adam Smith as the founder of capitalism. But this is a wrong idea. He did not initiate a doctrine for an ism in his ''The Wealth of nations'', and the term capitalism just appeared closely a century after his work. He instead found where the economical motives are; show how they drive and how to drive them; how governments should do and not interfere to assure the motives drive faithfully and naturally (i.e by their due natures). These are all about the principles of nature in economic, or the rules of economical natures.


FLOATING ATTRIBUTE AND DOCTRINE'S IDEAL


In fact, capitalism had not been formed by a declaration of a formatted or molded doctrine stipulating rigid rules of subjection for the followers. But it has been taken shape naturally, i.e its adherents have upheld the natures of economic and the evolutions, which followed by those natures' principles and fallen toward the bandwagon's inclination. Doing so step by step, it has gradually formed up many forms of society (not only a unique one) that share the same elementary laws which uphold private ownership to encourage individual motives in creation of goods or services for profit, keep the markets freely competitive in order to have the Invisible hand to self regulate economic activities, and regulate what Invisible hand doesn't work. Though it spread throughout much of the world, building democracy and prosperity in many nations with variety of time, culture, politics, geography, its followers has made a lot flowed versions such as harsh sweatshop in Europe and shameful slavery in America by early half of 19th century, or scads of corrupt crony-capitalist governments by now.


So it came to be clear that there is no constant attribute that affixed to a certain form of society and decided by its doctrine or simply by its name. Its attribute is scarcely a pre-set or congenital feature or hallmark, but a floating result depending on the degree of its peoples' compliance with The Creator's laws and the activities of theirs especially of those who hold power. History has made known to man many ideologies that had inherently been born with goodwill and kindness of their initiators, but ended up deteriorative existences, causing rampant perils for millions of people. It's on account of either their innately flawed design not being compatible with the natural rules or their adherents' subjectivity impinging on the objective of these rules. This was the case of Marx's doctrine and its deployment by Lenin. Hence it's impossible to say the nature of communism or socialism is good or bad. The attributes of its different appearances are sometimes bad and good but one can say its ideal, and ideal alone, is ever good and for people. Still, ideal does not always match practice, only one finding out the right path can do.


SOCIAL DEMOCRATIC MODEL


The best socialist forms that man has ever seen are the social democracies which have been developed very successfully in North European countries. This model was founded by persons who admired Marx's ideal for working class and his concepts of equal distribution for the mass, but scientifically revised and commented his ways of production and of dealing with class conflict. They admitted economic class disparities between the bourgeoisie and the proletariat but they claimed that this problem would be eliminated through legal reforms and economic redistribution programs. They believed that dictatorship of the proletariat would exacerbate the social relations, claiming that gradualist democratic reforms will improve the rights and benefits for working class. They argued with Lenin over ''class struggle'' of Marx, in which they rejected as false of Lenin's method wielding violence to capsize the upper classes in hope of to rise up the proletariat. They foresaw that this way would marshal to bloody exterminations and social devastations in return for a restrained scrum. They argued that class struggle just builds motives for development as Marx's will in only where the lower classes may have decent shots at life to improve themselves increasingly to the better lives or higher classes through a democratic process. These are the just motives in the long run, not the temporary rancorous ones. They rejected forcible revolutionary socialist and supported reformist one which developed a new concept of Social Democratic Socialism that upheld market economy principles to build the social market economy, protected redistribution of growth achievements, guaranteed equal chances and fair goes, permitted private enterprises and supported property rights, etc...


This model had been originated since early 1900s in Mensheviks faction that was denounced and outlawed in Russia by Lenin after the Nov 1917 revolution. Soviet authority imputed it as ''revisionism'' and ''reaction''. This word henceforth became the most popular criminal term being exerted to penalized anyone who acted or only talked, differently than the Lenin's Bolsheviks faction's creeds, stifling all reacting in the its normally fair meaning. In the countries subscribing Lenin's tenets the word of reaction makes the peoples dreaded and stir their soul, uprooting all critiques against the authorities together with new creative ideas indispensable for the country development. Peoples in the civilized countries almost never understand why reaction can be a problem, much less a crime.


Social Democracy has proliferated in North Europe since end of World War II, this-leaning parties have taken ruling power through democratic elections. Though it did not have a flare like did in USSR, it has peacefully, stably and sustainably developed into the best and ameliorative societies on over the world. These are Sweden, Norway, Finland, Denmark, Netherlands that are also the most democratic, prosperous and civilized nations. The practically taken-shape forms of society of these states have much likeness but are not homogeneous, and do not starkly resemble the one expected by Eduard Bernstein[2](*) and other theorists of social democratic ideology. The forms, however, all share the common elementary rules: firstly and ultimately protecting human rights, watchfully upholding market economy, resolutely maintaining a substantial democracy to make sure that the political decisions are really for the mass, defying forcible revolutions or top-down impositions. These rules build up a fundamental for observance of the principles of natures of human being - the major objective of society. That's why it has developed many admirable and sustainable achievements which are the results of peacefully evolving from peoples' activities by this fundamental (i.e under the move of above principles), gradually reaching the sublimity expected by the ideology's ideal. This model has therefore another official name: Evolutionary Socialism in contrast with Revolutionary Socialism that had flared in the USSR and ended up withering status quo. The rationale of its failure is its defiance against natural laws of The Creator by its conceit superseding those laws with its subjective ones.


PEACEFUL EVOLUTION ...


China and Vietnam are reenacting this mistake because they can not digest the consequential results of the evolution from the move of market economy that would compulsorily require an increasingly more democratic polity in order to have a social environment supporting for above mentioned fundamental. Such a polity would also balance the social interest between different groups of interest which always exist whether legally recognized or not. The lobbying of these groups would be put under the light of day to prevent bribe and graft perverting social relations. The polity would also not deprive the press of freedom but vice versa, entrust it with full responsibility to reflect multifacets of life multilaterally and prevent and bring to light underhand businesses. It would also empower citizens to hold all person in power accountable.


Although the two countries have accepted market economy and enjoyed its merits, they are apparently not conceivable how this principle irreversibly evolve and where it moves the whole economical, social, political matters to. So they are vehemently defying this inevitable evolution, criminalizing it with the term ''peaceful evolution''. History is repeating. This term now plays the role as of ''reaction'' in the USSR time, suppressing all initiatives for peacefully evolving the country to a well-being and penalizing even the well-wishers in return for rife scads of corrupt and degenerate statesmen, decadence of society, peoples of dread and self-doubt. Civilized peoples are so too difficult to apprehend why the peaceful actions are not encouraged, much less chargeable. History is repeating not only this similar period.


Looking back to the Cold war time. In early years of 1970 decade, when the first world, or the world of democratic and prosperous countries, was trying to get closer tie with China in order to pull it out of the central-planning economy, the USSR got into serious but cleverly-covered crisises of economic & society. Market economy had dominated and paid dividends in the first world, then it was being goaded for the developing countries. Less than 20 years later China has cheerfully enjoyed its achievements, lifting hundreds of millions of people out of poverty and want. Vietnam followed it later and, thank to that, avoided a seemingly unstoppable collapse. Meanwhile, USSR had stood pat, repudiating market economy that was alleged to be an intrigue of its rivals and hostility to topple it by evolving peacefully attacking from inside. The more impetuses that the first world goaded, the more intractably did the USSR stood pat. During that time, it was being forced into a proliferation by the USA's SDI. Thank to market economy, defense budget invested to SDI stimulated US economic growth. While USSR's resources, without market economy, were depleted seriously and increasingly by the proliferating defense outgoings. When it recognized the problem and genesis was too late. Gorbachev had been hopelessly trying to reform the economy. It led to a political upheaval, overthrowing him and then soon later a total disintegration of the mammoth USSR and its creepy bully - KGB.


... OR PITFALL REVOLUTION


Different appearances but same principle of natures. The first world now is endeavoring to goad human rights and democracy instead of market economy as before. Globalization now substitutes for proliferation. It indispensably needs a freedom and democratic fundamental to, similarly with market-economy, automatically adjust all economical, social, political matters in a globalized environment. Without such a fundamental, a country will not be able to manually regulate all above matters to make them work well, eventually draining all national capital sources, financial and human. This is the scathing toll to pay for the infringement on The Creator's laws - an analog of the lack of market economy in the proliferation - that is unavoidable. It's simply because that is the evolving result by the laws.


The ultimate result will also be a collapse or disintegration of a regime if it does not soon admit its mistake, keeping repudiation of genuinely respecting and upholding human rights in order to have a substantial democracy. This seems a result of ''pitfall revolution'' rather than ''peaceful evolution''. If the pitfall had been or were truly present, perhaps it could have been or could be trapped by the USSR itself or any country that applies market economy and simultaneously rejects human rights, i.e breaches the principle of objective nature. There are a lot of such countries like this, stretching from Asia to Africa, Latin America and even Europe; communist - ruling or not, including various forms of state with or without doctrine; socialist or not, monarchical or republic. Among them are some prominence: China, Libya, Vietnam, Venezuela, Saudi Arabia, Iran and even Russia.


The above scathing toll of the Creator for breaching His laws knows neither geography, ideology nor any from taken-shape by human. They are applied equally for everywhere, everyone without exception and no human strength can go against them. Man just can discover them, unravel them, thoroughly apply them to create his strength and MUST conform with the evolution by them. Defiance of such an evolution means driving on the wrong side of history. Perdition. Catastrophe may descend on not only the persons who are liable for it but also the innocent. Aftermaths of dogma.


NATURAL FORCE AND MOTIVE


European people had escaped from the dogma catastrophe of inquisition because of Newton's enlightenment. Billions of peoples around the world have escaped from the catastrophe of want and famine thank to Adam Smith's Invisible hand. These are the greatest discoveries of human kind. The greatness is that the findings of natural forces in the physical world and natural motives in the economic world. It were those natures - forces and motives that have helped peoples build up tremendous strength, leaping human kind since then.


There should be such forces and motives and principles of their natures in the world of the whole economical, social and political matters that peoples should discern to avoid the non-democratic catastrophe of similar dogma, and to fastest grow the developing countries into the world of democracy, prosperity and of course, civilization since then.


Finding those natures and principles is the endeavor of this book and would be unraveled in the later episodes of it.
________________________


[1] (1850-1932). Một chính trị gia người Đức, người sáng lập nên chủ nghĩa xã hội tiến hóa và chủ nghĩa xét lại.
[2] (*) (1850-1932), Germany politician, founder of Evolutionary Socialism and Revisionism.
[i] Tựa của trích đoạn này do người dịch đặt, được trích từ quyển sách Hành trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Trần Huỳnh Duy Thức.
[ii] Tức là phản ứng bình thường của con người (người dịch chú thích)
[iii] This is an extract from the book Hewing Quest for Democracy and Prosperity of Tran Huynh Duy Thuc. This tile is named by translator.

23 Ý kiến:

Lưu Ý :



- Những phản hồi sử dụng "Nặc danh/Ẩn danh"sẽ không được xuất hiện. Các bạn có thể chọn một nickname cho mình khi phản hồi bằng cách sử dụng các chức năng : "Tên/Url", hoặc bằng tài khoản Google


- Những phản hồi chữ Việt không dấu cũng sẽ bị xóa.
  1. ke sống trên gheJan 20, 2012 03:36 AM
    Quá cao siêu ,một nhân tài của đất nước VN,người lảnh đạo sau nầy của VN nếu ...vì vậy CSVN bằng mọi cách phải tiêu diệt thôi .Người yêu nước tự ngàn xưa có xá chi chuyện gian khổ,hy sinh .Hàng ngàn người nằm xuống ,để cho hàng triệu người đứng lên sống trong thanh bình dân chủ ,chấp nhận thôi .Sử sách ghi danh ngàn đời dân tộc tưởng nhớ .
    Trả lời
  2. emgaJan 20, 2012 04:28 AM
    Thương thay trí thức Việt Nam
    Nói thật chuốc oán,bắt giam vô tù.
    Trả lời
  3. Vu HuyJan 20, 2012 04:42 AM
    Hãy thả ngay anh Thức để anh hoàn tất quyển sách này cho nhân loại.


    Xin cảm ơn bác Huỳnh đã giúp nhiều người đọc được những suy nghĩ quá sâu sắc của anh Thức. Việt Nam tự hào vì có Trần Huỳnh Duy Thức


    Cảm ơn Danlambao
    Trả lời
  4. Khánh-PlêikuJan 20, 2012 05:17 AM
    Như vậy chúng ta đã biết vì sao anh Trần Huỳnh Duy Thức phải chịu một bản án quá nặng đến 16 năm tù ! Trong lúc các anh Lê Công Đ5nh , Nguyễn Tiến Trung , Lê Thanh Long cũng bị truy tố cùng một tội danh mà các anh ấy những những bản án nhẹ hơn rất nhiều so với anh Trần Huỳnh Duy Thức ! Đảng CSVN nhận thấy anh Trần Huỳnh Duy Thức là một nhân tài , một nhà kinh tế tài ba , một chính trị gia lỗi lạc xứng đáng làm lảnh đạo . Bản chất của Cộng Sản là diệt trừ những trí thức và những ai họ cãm thấy là đối thủ làm lung lay cái quyền lảnh đạo của họ .
    Trả lời
  5. BK 31Jan 20, 2012 05:39 AM
    Việt cộng sẵn sàng hủy diệt bất cứ những gì,những ai mà chúng cảm thấy nguy hại cho chế độ độc tài,ngu dân ,bán nước của chúng ,nhất là những người trí thức vì dân vì nước,anh Trần Huỳnh Duy Thức là một nhà tư tưởng nguy hiểm trong sổ bìa đen của chúng,do đó bản án anh phải thật nặng nề để đe dọa những người đấu tranh cho tự do ,dân chủ và nhân bản cho dân tộc Việt Nam.
    Trả lời
  6. Thac macJan 20, 2012 05:46 AM
    Có ai biết chính xác anh Thức học ở đâu không? Có người bảo là hoàn toàn trong nước hay tự học, nhưng tôi cũng nghe là anh ấy học ỏ Mỹ từ nhỏ.


    Đọc sách này thì cũng nghĩ như thế, chắc đào tạo ở nước ngoài.
    Trả lời


    Trả lời







    1. xoathantuongJan 20, 2012 06:30 AM
      "Trần Huỳnh Duy Thức, sinh ngày 29 tháng 11 năm 1966, sống tại phường 13, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh. Ông là một kỹ sư - doanh nhân Việt Nam, nguyên là Tổng Giám đốc của Công ty Dịch vụ điện thoại internet OCI, là một nhân vật bất đồng chính kiến tại Việt Nam.




      ...
      Năm 1989 ông tốt nghiệp khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1994 ông cùng ông Lê Thăng Long thành lập Công ty tin học Duy Việt tại Hà Nội..."




      Đọc thêm tại:
      http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Hu%E1%BB%B3nh_Duy_Th%E1%BB%A9c
  7. tekinhJan 20, 2012 06:37 AM
    mong anh sớm được đến với thế giới Tự Do.Mong anh có một mùa xuân an lành
    Trả lời
  8. vuongJan 20, 2012 07:08 AM
    "Theo quyết định trên, xét thấy bị can Trần Ngọc Sương đã có hành vi phạm tội "Lập quỹ trái phép" nhưng xét hoàn cảnh lịch sử xảy ra sai phạm và những tình tiết giảm nhẹ, công lao đóng góp của gia đình và cá nhân bị can nên miễn truy cứu trách nhiệm hình sự (theo khoản 1, điều 25 Bộ Luật hình sự)."
    Nghiã là hoàn cảnh lịch sử đó những kẻ chiến thắng đua nhau giành phần ăn của miền Nam thua thiệt vì thất trận .Chẳng lẽ bắt tội bà Sường vì các đảng viên giàu có hiện nay đều vi phạm luật ;nhưng còn một thứ luật quả báo nhá !luật này không trừ một ai .Đừng hỏi vì sao kiếp sau các người thành chó đói vì kiếp trước ăn của người ta .
    Mô Phật ! đây là toà công bằng nhất .
    Trả lời
  9. THANGKHOSAIGONJan 20, 2012 07:42 AM
    tôi là dân đen với bài viết tiêng anh hoàn toàn mù,nhưng không biết 13 con khỉ đực và con khỉ cái ba đình,có nhiều con trong 14 con có học vị tiến sĩ,giáo sư,thạc sĩ,không biết có đọc và hiểu hết nội dung bản tiếng anh này không?nếu họ không đọc và hiểu được bài viết tiếng anh này,thì nhân dân vn trầm luân trong bất công và nghèo khổ,đất nước này bị lệ thuộc tàu lạ cũng không có gì lạ.bỡi những cái đầu đất lảnh đạo đất nước có tầm nhìn cao nhưng chưa qua lựng quần phụ nữ,có đỉnh cao trí tuệ học đại, thì phải nói rằng ở đâu có cộng sản ở đó có bất công và nghèo đói là sự thật./.
    Trả lời


    Trả lời







    1. MYJan 20, 2012 08:23 AM
      Mọi người có thể đọc hiểu anh THDT nói gì chỉ trừ đảng CS VN không thèm đọc chỉ cần bắt anh thôi
  10. Thương XótJan 20, 2012 08:19 AM
    Tôi xin phép tác giả cho tôi được gọi là "quỉ" thay vì "khỉ." 13 con quỉ đực có cái cười nham nhở, và một con quỉ cái thì có khuôn mặt sư tử và cũng có giọng sủa giống tiếng chó sói. Bởi đó, cách ăn nết ở của bọn chúng y như loài thú ăn thịt người.
    Trả lời
  11. vuongJan 20, 2012 09:57 AM
    Tôi không đủ kiến thức để phân tích
    " Diễn Biến Hòa Bình hay Cách Mạng Cạm Bẫy "
    giống như không thể sáng tác bản nhạc hay
    nhưng biết thưởng thức , xếp bản nào hay nhất
    Người trí thức như anh Trần Huỳnh Duy Thức
    có kiến thức và tâm huyết với Đồng Bào
    đang oằn oại với trận đồ Kinh Tế
    Anh chỉ ra con đường đảng kinh thế
    thiên la điạ võng rối tựa bòng bong
    vòng lẩn quẩn của chủ nghĩa Cộng sản
    nó mơ hồ như giáo lý điển kinh
    gần thế kỷ nhân loại nếm đau thương
    phải gỡ bỏ những mơ hồ phản khoa học
    thân phận người tài sống trong đời ô trọc
    được thưởng công bằng mười sáu năm tù
    có khác chi quăng vì sao vào đáy giếng .
    Trả lời
  12. Dân tộcJan 20, 2012 10:42 AM
    Trẻ tuổi nhưng kiến thức thì vượt trội rất nhiều so với tuổi đời. Xin ngả mũ kính phục. Ai bảo nhân tài của VN không có mà chỉ không biết sử dụng và không tạo điều kiện cho nhân tài phát triển. Chỉ nội như vậy cũng đủ tự giết mình và dân tôc của mình rồi
    Trả lời
  13. Tẻo SàigònJan 20, 2012 11:22 AM
    Bài viết quá hay quá thăm sâu! Đảng ta sợ con sâu làm nồi canh nên bỏ tù hết trí thức chống đối. Lúc nào còn CSVN đất nước sẽ ngốc đầu kô nổi.
    Trả lời
  14. Nhóm Kỹ Sư Việt MỹJan 20, 2012 01:28 PM
    Dear Bác Huỳnh
    We are a group of Engineers and University Students in America. We are writing this comment to you in English because we have watched you posted several articles recently in English in this " danlambao" , and we are certain that you would have sufficient English to understand our comments. Moreover, there are some of us here who can't understand well Vietnamese. So comments written in English is a better way to keep the whole group understand.
    Wow……wow….wow, the first impression we have is that we are very …. very surprised and excited to see a brilliant article written in English by a Vietnamese person, not an exiled folk as we often think. But apparently the person who lives in Vietnam. Ironically he is also being imprisoned by his political stance and thoughts. From this article there is absolutely no doubt that your son, anh Trần Huỳnh Duy Thức, is a patriot and has great leadership skills. He should be a potential political leader in the aftermath of communist regime, a free and democratic Vietnam.
    The more we read the article the more we get shocked and feel resented towards the communist government. This exclusive regime should not even exist to begin with and it should have been collapsed at the same time with the collapse of communist Soviet Union. The communist doctrine has been killed and recognized to the whole world that it is practically undoable. The World History has shown any country which implemented this doctrine ended up with failures after failures, leading the country to poor and uncivilized.
    The booming of Internet in the last century has connected the world together. Enormous information about communist leaders and their brutal actions were once covered up as nation top secrets. Their brutal crimes committed by top leaders such as Ho Chi Minh and his fellow comrades have been gradually exposed by the Vietnamese People. The daily exchange of information between the people inside Vietnam and their fellow Exiled Vietnamese, prosecuting communist officials in free medias are on-going on daily basis and at high intensity. Pictures and evidences showing communist officials in corruptions and embezzlements are being seen and exposed to the People of Vietnam, leading to the question of communist legitimation in governing the country. The answer is obviously no…no… no. The communist must go and reserve rooms for patriotic individuals like anh Trần Huỳnh Duy Thức and his fellows to run the country.
    We are urging all the people of Vietnam to unite together and one day within the year of 2012 we all stand up for a free and democratic Vietnam.
    Best regards.
    Nhóm Kỹ Sư Viêt Mỹ.
    Trả lời
  15. Đợi ChờJan 20, 2012 02:37 PM
    Đợi Chờ đã từng nhận xét ở trang dạnluan.org : vào thời 1945 đấu tranh vũ trang mới có thể lật đổ chính quyền - còn hiện nay đấu tranh chính trị là có thể lật đổ chính quyền (mùa xuân Á Rập, Liên Xô). Liên Xô sụp đổ vì đấu tranh chính trị dân chủ đa đảng và tình trạng các đảng viên ĐCS Liên Xô thê thảm như thế nào ai cũng biết. Nhận thức rõ ràng điều này, VN và TQ đang theo đuổi diệt trừ dân chủ đa đảng ngay tại mầm mống. Chỉ cần đội nón với chữ HS - TS -VN là đủ để chính quyền hành động.
    Vì vậy chúng ta nên từ bỏ đấu tranh dân chủ đa đảng - mọi lời kêu gọi nhân dân đứng lên chỉ là "Đem dân nướng trên ngọn lửa hung tàn"(Bình Ngô đại cáo). Thay vào đó chúng ta kêu gọi dảng viên hay các nhà đối lập trung thành đứng lên để kêu gọi giới lãnh đạo VN thực hiện Chương Trình Hiện Đại Hóa và Dân Chủ Hóa Chủ Nghĩa Xã Hội.
    Cũng vì lý do trên Đợi Chờ kêu gọi các đảng viên và nhà đối lập trung thành đứng lên tạo thành Phong Trào Thăng Long và Hội Nghị Diên Hồng.
    Không một cá nhân có thể làm nổi mùa xuân.
    Trả lời
  16. LãngTử Miền TrungJan 20, 2012 04:22 PM
    Chỉ mới đọc qua mấy đoạn trong cuốn sách viết bằng tiếng anh ,của anh TRẦN HUỲNH DUY THỨC .QUẢ ĐÚNG anh là một TRÍ THỨC LỚN, Một NHÂN TÀI CỦA ĐẤT NƯỚC rất tiếc cuốn sách chưa được viết xong thì anh đả BỊ bắt . Đồng ý với nhận xét của Khánh Pleeiku . Theo tôi đó là cách làm DIỆT TRỪ HẬU HOẠN quen thuộc của cộng sản VN ,hoặc bất kể đảng cộng sản nào từ Liên sô củ ,Trung cộng ,Bắc triều tiên , hay bất cứ chế độ đọc tài nào trên thế giới .16 năm tù dành cho anh TRẦN HUỲNH DUY THỨC ,đảng cộng sản VN hy vọng rằng sau khi MÃN HẠN tù kiến thức của anh sẻ bị mai một ,sức khỏe suy kiệt ,ý chí tiêu hao anh không còn là người đáng sợ của ĐCS VN nữa .Nhưng ĐCSVN đả lầm ; 16 năm năn trong tù là lò luyện để tư tưởng anh thâm sâu thêm ,ý chí bền bỉ hơn ,và đặc biệt giúp anh nhìn rõ hơn bộ mặt ,bất công ,bất lương ,xảo trá ,gian ác và hèn hạ của ĐCS VN .Hẹn gặp lại anh vào thời THÁI LAI rất gần sau thời BỈ CỰC , Kính Chúc anh một năm mới trong tù luôn giữ vững niềm tin ,ý chí, và nghị lực để vươt qua ..
    Trả lời
  17. Ngọc HNJan 20, 2012 07:53 PM
    Trân Huỳnh Duy Thức quả là một thiên tài chính trị không chỉ của VN mà nếu những công trình nghiên cứu của anh được in thành sách và phổ biến ở nước ngoài thì chắc chắn cũng được thế giới ngưỡng mộ. Bỏ tù anh Thức là một sai lầm lớn của đảng và là một thiệt hại to tát gây thiệt hại lâu dài cho đất nước. Thật đáng tiếc!
    Trả lời
  18. Một đảng viênJan 20, 2012 08:06 PM
    Thực ra thì nhiều lãnh tụ cộng sản (kể cả thời kỳ con hệ thống XHCN) cũng nghĩ như anh Trần Huỳnh Duy Thức nhưng vì sợ hãi tù ngục hoặc sợ mất quyền lợi nên không dám nói thôi.
    Trả lời
  19. Cánh Én NhỏJan 20, 2012 09:22 PM
    Có lần mình thao thao với một kẻ lừa đảo để mong nó bỏ đường sai quay về nẻo chính nghĩa nhưng thấy thật mất công. Mọi điều mình nói với nó, nó đều biết cả những đấy không phải là sở trường của nó vì lừa đảo nó đứng hạng nhất. Qyay lại nẻo người ta đi? nó chỉ là hạng thứ. Nó thấy làm thế nó không có lợi chứ không phải nó ngu.
    Trả lời
  20. cộng sản là bọn ngụy quân tửJan 20, 2012 10:18 PM
    @Một đảng viên


    vậy đến chừng nào thì những người như "một đảng viên" dũng cảm rời bỏ đảng ? biết thế nhưng nhắm mắt đưa chân vì miếng cơm sao ?
    đôi khi cuộc sống đâu chỉ có những thứ vật chất tầm thường đó, sống để sau này chết thanh thản .


    tôi đã từng có cơ hội để thăng tiến trong cái môi trường quốc doanh lấy đảng làm thứ công cụ thăng tiến lùi cuối nhưng cuối cùng tôi đã thoát ly để lương tâm thanh thản . Họ giàu thì giàu đó nhưng không bằng mồ hôi trí tuệ mà bằng sự đục đẽo mánh khóe thủ đoạn thì sống không có ý nghĩa đâu


    hy vọng 3 triệu đảng viên kia hãy nghĩ lại mà sống cho con cháu đời sau còn chút tôn trọng lập bia thờ phượng
    Trả lời
  21. Hien NguyenJan 20, 2012 11:58 PM
    Phải có nhiều bài viết như thế này thì mới có thể thay đổi đất nước được. Cảm ơn Danlambao và mong tiếp tục có nhiều tin bài sâu sắc thế này.


    Mong các bạn phổ biến những bài viết này thật rộng rãi đẻ nâng cao dân trí, không để cho bọn cầm quyền ngu dốt mị dân lừa bịp mãi.


    Anh Thức sẽ sớm trở về, tôi tin như vậy, để lãnh đạo đất nước.
    Trả lời

0o0






« Trở về trang trước


Bắc Kinh quan tâm thái độ người Việt ở Mỹ trong vấn đề Biển Ðông
Wednesday, January 18, 2012 8:35:42 PM
Bookmark and Share



Ðọc tạp chí 'Quan Hệ Quốc Tế Hiện Ðại,' Trung Quốc, số 6/2011




LTS - Bài viết dưới đây do độc giả Việt Tâm chọn, hiệu đính, ghi chú, và gởi đến Người Việt. Trong phần lời dẫn, Việt Tâm giới thiệu: "Mới đây, tập san Các vấn đề quốc tế ở Hà Nội, số ra tháng 10, 2011 cho dịch và đăng lại một bài nghiên cứu khá cặn kẽ của Trung Cộng đăng trên tạp chí Quan hệ quốc tế hiện đại của Trung Quốc, số ra tháng 6, 2011, viết về cộng đồng người Việt trên đất Mỹ và ảnh hưởng của họ đối với chính sách của Mỹ về tranh chấp Biển Ðông. Mặc dầu ngôn ngữ bài viết có thể phản cảm đối với chúng ta (tỷ như cho người Việt ở Mỹ là "chống lại tổ quốc," thậm chí lại còn mô tả là "phản quốc" - nhưng có lẽ chỉ với dụng ý là người Việt hải ngoại chống lại chế độ ở quê nhà, hoặc gọi Việt Nam là "mẫu quốc" của chúng ta, lẽ ra chỉ nên gọi là "quê hương đất tổ" mà thôi) nhưng nói chung, bài viết có thể xem được là khá khách quan dựa trên những con số và những dữ kiện có thật, thuộc loại "nói có sách, mách có chứng." Dù ta đồng ý hay không với những nhận định và kết luận của bài viết, đây cũng là một bài viết có cơ sở và lạ thay, đánh giá khá tích cực vai trò của người Mỹ gốc Việt trong cuộc vận động về Biển Ðông bên cạnh chính quyền Mỹ."
Tòa Soạn giới thiệu bài viết cùng những đoạn in nghiêng do Việt Tâm thực hiện, nhằm "nhấn mạnh để lưu ý độc giả." Tựa bài do Người Việt đặt

*** 
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng từ [các] nhóm lợi ích trong các quyết sách ngoại giao của Mỹ ngày càng gia tăng, dẫn đến sự vận động chính trị của các nhóm dân tộc ít người cũng tích cực hơn. Một trong những hậu quả là nhóm dân tộc ít người vận động chính trị không chỉ gây ảnh hưởng đối với lợi ích quốc gia trong thực tế hoặc trong tư tưởng của mẫu quốc (quê hương), mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của nước thứ ba, đến quan hệ giữa Mỹ, mẫu quốc (quê hương họ) với nước thứ ba. Nói cách khác, nhóm vận động chính trị của dân tộc ít người không những đang ngày càng vượt khỏi mối quan hệ song phương giữa Mỹ và mẫu quốc mà còn gây ảnh hưởng quốc tế với phạm vi rộng lớn hơn. Sự vận động chính trị [của] người Mỹ gốc Việt là một điển hình.


Người Mỹ gốc Việt trong một lần biểu tình chống Trung Quốc trước Lãnh Sự Quán Trung Quốc ở Los Angeles. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)
Những người này chủ yếu là "dân tị nạn," "thuyền nhân" và "dân di cư" sau năm 1975. Nhóm người này mặc dù vẫn có tư tưởng chống Việt Nam, nhưng không kiên quyết và triệt để như người Mỹ gốc Cuba. Họ không phản đối bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ, không có ý đồ kìm hãm sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy tâm lý phức tạp này đã hạn chế hiệu quả tâm lý vận động chính trị của họ, nhưng họ lại có hành động nhất trí tích cực trong vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông), làm cho ảnh hưởng của họ nâng cao rõ rệt: Người gốc Việt ở Mỹ có ý đồ tác động lên chính sách Nam Hải của Mỹ và Việt Nam. Từ cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, họ đã từng tác động ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ và Việt Nam về vấn đề Nam Hải. Những năm gần đây, việc làm của họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyết sách can dự toàn diện vào Nam Hải của Mỹ. Ðồng thời, họ đã trở thành tấm gương trong số dân di cư gốc Ðông Nam Á khác tại Mỹ lên tiếng về quyền lợi Nam Hải. 
1. Ðặc trưng dân số ảnh hưởng đến nhóm vận động chính trị người Việt 
Giống như các nhóm dân tộc ít người vận động chính trị khác, trước hết là đặc điểm thành phần cơ cấu của nhóm vận động chính trị gốc Việt ở Mỹ mang tính quyết định. Lịch sử của họ trên đất Mỹ không dài: Mặc dù trước năm 1975, một số dân di cư người Việt đã đến Mỹ, nhưng số lượng rất ít, chủ yếu là sinh viên và một số phụ nữ Việt lấy chồng Mỹ cùng một số quân nhân Nam Việt Nam được Mỹ đào tạo. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt đã di cư ồ ạt sang Mỹ. Trong hơn 30 năm qua, số lượng người Việt ở Mỹ tăng nhanh, trở thành dân tộc có quy mô lớn về dân số trong số người Mỹ gốc Châu Á và có ảnh hưởng quan trọng đến xã hội Mỹ. Theo số liệu năm 2006 của Cục Thống Kê Dân Số Mỹ, nước Mỹ có khoảng 1.5 triệu người Việt. Số lượng người Việt ở Mỹ chỉ đứng sau người gốc Hoa, gốc Ấn Ðộ và Philippines, đứng thứ tư trong số các dân tộc Châu Á ở Mỹ. Về tổng thể, quá trình di cư của người Việt tại Mỹ có thể chia ra thành ba đợt. Ðặc điểm của nhóm người Việt ở Mỹ có liên quan đến vấn đề này.
Làn sóng dân di cư người Việt đầu tiên gọi là "dân tị nạn," họ rời khỏi Việt Nam chủ yếu xuất phát từ tâm lý "sợ hãi" bị hãm hại và trấn áp về chính trị sau khi đất nước thống nhất. Nhóm người này đều đến Mỹ sau tháng 4, 1975 khi Sài Gòn được giải phóng và Việt Nam thống nhất đất nước. Họ đều có địa vị kinh tế xã hội khá cao. Chỉ trong vòng 8 tháng (từ tháng 4 - tháng 12, 1975), số dân tị nạn người Việt sang Mỹ lên tới hơn 129,000, rải khắp 5 bang của Mỹ. Trong nhóm người này, nhiều người là quan chức cấp cao của chính phủ và quân đội miền Nam Việt Nam. Nhiều người trong số họ có quan hệ hợp tác gắn bó với người Mỹ như thư ký, phiên dịch, chuyên gia tình báo, nhân viên truyền thông... Theo một cuộc điều tra, 47.8% có trình độ tốt nghiệp cấp 3; 22.9% học qua đại học; 7.2% là bác sĩ, 24% làm công tác chuyên môn kỹ thuật và quản lý, chỉ có 4.9% là nông dân và ngư dân. Nếu xét ở thời kỳ ấy, hơn 60% dân Việt Nam là nông dân thì có thể thấy số dân di cư đợt này chủ yếu là tầng lớp tinh hoa.
Làn sóng di cư thứ hai được gọi là "thuyền nhân," trong đó phần lớn là "Kiều dân" (Hoa kiều). Họ di cư cũng vì nguyên nhân chính trị. Sau khi Việt Nam bắt đầu thực hiện bá quyền khu vực từ năm 1978, nhiều người bị đối xử bất công đã tìm cách rời khỏi Việt Nam. Họ đi bằng thuyền hoặc đi bộ nên được gọi là "thuyền nhân." Họ đi qua Campuchia rồi sang Thái Lan, sau đó đến các trại tỵ nạn ở Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Thái Lan hoặc Philippines. Cuối cùng, họ được Mỹ, Canada, Australia và một số ít nước Tây Âu coi là "dân tị nạn" và có tư cách hợp pháp. Trong khoảng thời gian từ năm 1976-1988, "thuyền nhân" Việt Nam sang Mỹ lên tới gần 500,000 người. Ðiều cần phải chỉ rõ là nhiều "thuyền nhân" thực tế là Hoa kiều nhập quốc tịch Việt Nam. Trong thời kỳ này, do quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc xấu đi, đặc biệt là sau chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979, chính phủ Việt Nam bắt đầu xua đuổi hàng loạt Hoa kiều quốc tịch Việt Nam. Chính sách này [được] liên tục thực hiện trong vài năm, hàng trăm nghìn người Hoa đã bị đuổi khỏi Việt Nam. Mặc dù nhiều người Hoa quay về Trung Quốc, nhưng có một bộ phận khá đông phiêu bạt khắp thế giới, trong đó nước Mỹ là nơi họ đến đông nhất. Trong thời kỳ này, 300 nghìn người Hoa đã đến Mỹ. Theo số liệu của Cục Thống Kê Dân Số Mỹ, tính đến năm 2000, số người này là 390,000 người.
Làn sóng dân di cư thứ ba là họ hàng thân thuộc của những người di cư trong hai đợt trên hoặc con lai của quân nhân Mỹ tại Việt Nam. Họ đến Mỹ từ cuối những năm 80 đến thập niên 90 của thế kỷ XX. Sau khi nhóm ngưòi Việt trong hai đợt đến Mỹ và có được tư cách hợp pháp, họ đã đặt vấn đề làm thế nào để đưa thân nhân của họ sang Mỹ thành chương trình nghị sự của chính phủ Mỹ. Ðể tránh những hiểm nguy to lớn trên đường mà những người di cư trong hai đợt trên gặp phải, Mỹ và các nước khác đã xây dựng chương trình cho phép họ rời Việt Nam đến trực tiếp Mỹ và các nước khác. Ở Mỹ, đây là "Chương trình ra đi có trật tự" [tức ODP, tắt cho Orderly Departure Program - Ghi chú của NBT]. Tính đến năm 1998, chương trình này đã tiếp nhận 362,000 dân di cư Việt Nam. Cũng vào thời gian đó, Mỹ đã thực hiện hai chương trình được coi là khoản bồi thường cho "đồng minh Nam Việt Nam" thời chiến tranh, đó là "chương trình nhân đạo" ["Humanitarian Program" hay còn gọi là H.O, tắt cho "Humanitarian Operation Program"- NBT ghi chú] và "Chương trình người Châu Á ở Mỹ" ["Amerasian Program"- NBT ghi chú] còn được gọi là "Luật người Mỹ hồi hương" ["Amerasian Homecoming Act"- NBT ghi chú]. Quốc Hội Mỹ đã thông qua luật này vào năm 1988 và năm 1989 bắt đầu thực thi, trọng điểm được quan tâm của luật này là giúp con cái binh lính Mỹ và thân nhân của họ ở Việt Nam trở về Mỹ. Tính đến năm 2000, chương trình này đã tiếp đón 84,000 người. So với số người di cư trong hai đợt đầu, thành phần lần này phức tạp hơn. Họ thường có hiểu biết nhiều về xã hội và có kinh nghiệm đấu tranh, thường xuyên tổ chức ra các nhóm cánh hữu và tụ tập người Việt Nam di cư sang Mỹ và sống rải rác khắp thế giới tham gia vào "sự nghiệp chống cộng."
Do cao trào ba đợt di cư kể trên, người gốc Việt ở Mỹ có một số đặc điểm về cơ cấu, đồng thời thực tiễn vận động chính trị của họ đã có ảnh hưởng quan trọng. Trước hết, động cơ của dân di cư chủ yếu xuất phát từ tính toán chính trị, do đó họ có lập trường chính trị khá bảo thủ, đa số ủng hộ Ðảng Cộng Hoà Mỹ có lập trường chống cộng. Chẳng hạn, theo điều tra lần đầu tiên vào năm 2000, 600 người Việt được hỏi ở Quận Cam coi nhiệm vụ "chống cộng" là công việc "quan trọng hàng đầu" hoặc "vô cùng quan trọng."
Thứ hai, giống như các dân tộc ít người khác ở Mỹ, người Việt cư trú khá tập trung, đã nâng cao được tầm quan trọng của họ về chính trị. Mặc dù ngay từ đầu, chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách phân tán người Việt, nhưng chính sách này nhanh chóng bị phá sản do họ chủ động ở tập trung với nhau. Ngay từ năm 1982, người Việt ngày càng tập trung nhiều ở Quận Cam bang California, đặc biệt là khu vực Garden Grove - được mệnh danh là "tiểu Sài Gòn." Ðây được coi là "thủ đô của người Việt lưu vong." Hiện nay, người Việt chủ yếu sống tập trung ở một số nơi như khu vực Galena, Texas, New York...
Cuối cùng, địa vị kinh tế xã hội của người Việt không cao. Ðiều này không có lợi cho việc tăng cường hoạt vận động chính trị. Mặc dù địa vị kinh tế xã hội của nhóm người di cư đợt đầu khá cao nhưng địa vị kinh tế xã hội của hai nhóm người di cư đợt sau lại kém xa. Những người Việt Nam mới đến Mỹ do những nguyên nhân như cơ sở kinh tế kém, trình độ ngôn ngữ hạn chế nên phần lớn phải chọn công việc thu nhập không cao. Sau năm 1990, địa vị kinh tế của người gốc Việt nâng lên nhanh chóng. Chẳng hạn như bang Massachusetts, đến năm 2007, bình quân thu nhập của một gia đình gốc Việt là 57,000 USD/năm, bình quân thu nhập đầu người là 23,000 USD/năm, nhưng vẫn thấp hơn bình quân thu nhập của một gia đình người gốc Châu Á ở Mỹ là 69,000 USD/năm và 30,000 USD/năm một đầu người. 
2. Thực tiễn vận động chính trị của người Việt ở Mỹ 
Ðặc điểm lập trường chính trị của người Việt khá bảo thủ và dân cư sống tập trung với nhau nên họ có ảnh hưởng chính trị nhất định. Tuy nhiên, địa vị kinh tế của họ lại không được cao đã hạn chế họ phát huy ảnh hưởng chính trị ở mức độ nhất định. Ðúng như một học giả đã nói: "Từ sự tương phản rõ ràng trong quan hệ Mỹ-Cuba và quan hệ Mỹ-Việt, có thể phát hiện sự khác biệt giữa người Mỹ gốc Cuba với người Mỹ gốc Việt. Ðó là sự tồn tại của "quy tắc đồng tiền"; "ai có tiền và cho tiền thì kẻ đó có thể nắm giữ các quy tắc." Do đó, Mỹ có thể tiếp tục cứng rắn với Cuba, nhưng lại cởi mở với Việt Nam. Vì vậy có thể thấy, việc vận động chính trị của người gốc Việt thể hiện trạng thái tâm lý "hai mặt," giữa vận động tích cực và phản quốc một cách điển hình.
Do lịch sử di cư sang Mỹ như vậy nên việc vận động chính trị của người gốc Việt chủ yếu bắt đầu từ sau năm 1975. Ðương nhiên, trong hoảng thời gian từ năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là chính quyền Ngô Ðình Diệm đã xây dựng một lực lượng vận động chính trị lớn,[1] tạo cơ sở để vận động chính trị về sau. Tuy nhiên, vào thời kỳ ấy, vận động chính trị phần nhiều là để thúc đẩy mạnh mẽ sự nhiệt tình chống cộng vốn có của người Mỹ. Vì vậy, vận động chính trị của người Việt chỉ có thể chính thức được mở rộng khi có đông đảo người Việt Nam di cư sang Mỹ sau năm 1975. Các cuộc vận động chính trị của người Việt tại Mỹ có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ (năm 1995).
Trước năm 1995, do ký ức Chiến Tranh Lạnh còn nặng nề và quan hệ Việt-Mỹ đối địch, vận động chính trị cua người Việt ở Mỹ mang đặc điểm chống lại Tổ quốc một cách mạnh mẽ. Ða số dân di cư Việt Nam trong thời kỳ này mang tâm lý "chống cộng" quyết liệt, do đo dễ dàng tạo ra sự đồng thuận chính trị mang tính bảo thủ. Tổ chức người gốc Việt ở Mỹ có nhiều nhóm vận động chính trị, nổi tiếng nhất là "Ðại hội toàn quốc người Mỹ gốc Việt" [2] [đích thực là "Nghị hội Toàn quốc Người Việt tại Hoa kỳ," tắt là "Nghị hội."- Ghi chú của NBT], "Hiệp hội giáo dục và phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam ở Mỹ" [Trong tiếng Anh là "National Association for the Education and Advancement of Khmer, Lao and Vietnamese Americans," tắt là NAFEA- Ghi chú của NBT], "Thuyền nhân SOS" [tức "Boat People S.O.S., Inc."- Ghi chú của NBT], "Hiệp hội gia đình tội phạm chính trị" [đích thực là "Hội Gia đình Tù nhân Chính trị VN," trong tiếng Anh là "Families of Vietnamese Political Prisoners Association," viết tắt là FVPPA- Ghi chú của NBT], "Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Việt" [tức "Vietnamese Political Action Committee," tắt là VPAC - Ghi chú của NBT]... Trong giai đoạn này, thành công của nhóm vận động chính trị thể hiện trên ba phương diện: Trước hết, họ ủng hộ xây dựng Ðài Châu Á Tự Do. Bắt đầu từ năm 1985, người Việt đã ra sức thúc đẩy xây dựng Ðài Châu Á Tự Do, các biện pháp vận động chính trị chủ yếu là viết thư thỉnh nguyện và gặp mặt các đại biểu Quốc Hội. Trong quá trình biểu quyết một quyết nghị có liên quan đến bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt năm 1994, người gốc Việt là dân tộc ít người duy nhất trong số các dân tộc ở Châu Á ở Mỹ ủng hộ quyết định này. Thứ hai, họ giành thắng lợi trong việc kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ. Tháng 3, 1994, 250 người Việt đã gửi đơn kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ, ép bộ này đánh giá lại chính sách đối với dân di cư là thuyền nhân Việt Nam bị lưu giữ kéo dài ở Hong Kong, không cho đẩy trở lại hoặc buộc họ viết lại đơn xin nhập cư. Cuối cùng, thông qua vận động chính trị đối với các nghị sĩ Quốc Hội, đặc biệt là bà Leslie Byrne, nghị sĩ bang Virginia, người gốc Việt đã thành công trong việc thông qua nghị quyết ở Quốc Hội. Từ đó, ngày 11 tháng 5, 1994 trở thành "Ngày Nhân Quyền Việt Nam."
Vận động hành lang chống lại Tổ quốc của họ trong giai đoạn này còn thể hiện ở chỗ có sự tranh luận quyết liệt, thậm chí sát hại nhau về việc Mỹ và Việt Nam có nên bình thường hóa quan hệ ngoại giao hay không? Những người Mỹ gốc Việt đề xướng bình thường hóa quan hệ ngoại giao hoặc thương mại Mỹ-Việt thường ở vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn, tháng 8, 1989, nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng Ðoàn Văn Toại đã bị bắn chết [3] do viết bài kêu gọi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ; ngày 28 tháng 5, 1984, vợ chồng Nguyễn Văn Lũy và Phạm Thị Lưu [ở San Francisco, CA - Ghi chú của NBT] là những người đề xuất mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam đã bị bắn, ông Lũy chỉ bị thương còn bà Lưu thì chết. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhân lúc nền kinh tế Việt Nam bên bờ vực sụp đổ, nhiều người Việt ở Mỹ vẫn cho rằng không nên cứu chính quyền Ðảng Cộng Sản ở Hà Nội, trừ phi họ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh và người Việt ngày càng hội nhập vào xã hội Mỹ, việc vận động chính trị của người gốc Việt tại Mỹ cũng dần dần chuyển hướng. Ðến năm 1995 đã bước sang giai đoạn thứ hai khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Họ một mặt không phản đối quan hệ Việt-Mỹ, đặc biệt là bình thường hóa quan hệ thương mại, mặt khác vẫn đánh giá tiêu cực đối với thể chế chính trị, nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo trong nước Việt Nam. Tâm lý phức tạp này dẫn đến họ ủng hộ sự phát triển quan hệ Việt-Mỹ, ủng hộ sự phát triển trong nước của Việt Nam, nhưng mặt khác lại đòi chính phủ Mỹ có biện pháp cứng rắn buộc Việt Nam phải cải thiện tình hình chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo...
Mặc dù tự nhận là "dân tị nạn," nhưng những người Mỹ gốc Việt vẫn có tình cảm dân tộc mãnh liệt đối với quê hương. Nhiều người Việt mong muốn có thể quay trở lại Việt Nam sau khi nước này thực hiện dân chủ. Ví dụ, theo một điều tra dư luận người gốc Việt ở Quận Cam, 62% người được hỏi mong muốn quay lại Việt Nam sau khi nước này có tự do dân chủ. Xuất phát từ tình cảm đối với quê hương, mặc dù vẫn thường nhấn mạnh tình hình nội bộ chính trị ở Việt Nam, người gốc Việt dần dần không còn phản đối bình thường hóa quan hệ ngoại giao, cũng như sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, do các nguyên nhân như khả năng kinh tế và ý thức tham gia chính trị, người gốc Việt vẫn chưa ảnh hưởng nhiều đến việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Họ tin rằng xây dựng quan hệ ngoại giao có thể làm cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước được tăng cường, nhưng nhất định phải buộc nhà cầm quyền Việt Nam trả giá chính trị tương ứng, đó là phải cải thiện vấn đề nhân quyền, tôn giáo, dân chủ ở Việt Nam. Chẳng hạn, Chủ tịch Hiệp hội Tội phạm Chính trị Việt Nam [tên đích xác là "Hội Cựu Tù nhân Chính trị VN."- Ghi chú của NBT] ở bang Connecticut cho rằng nền kinh tế kế hoạch hóa nhất định phải cần đến giải pháp đồng bộ về dân chủ ở Việt Nam. Một ví dụ khác đó là người Việt đầu tiên là hạ nghị sĩ [= Dân biểu - Ghi chú của NBT] Mỹ Joseph Cao đã thể hiện tâm lý phức tạp khi đến thăm Việt Nam năm 2010. Ông tỏ ra vui mừng trước sự phát triển của Việt Nam, cho rằng mặc dù Việt Nam và Mỹ có nhiều bất đồng, "nhưng không có nghĩa là hai nước không thể hợp tác. Nhiều mong muốn của tôi không trùng hợp với chính phủ Việt Nam, nhưng tôi vẫn hy vọng hai nước có thể tiếp tục hợp tác."
Xuất phát từ sự quan tâm đối với quê hương, người Mỹ gốc Việt ủng hộ mạnh mẽ sự phát triển kinh tế trong nước. Hiện tượng này thể hiện rõ rệt nhất ở việc lượng kiều hối của Việt kiều tại Mỹ đều tập trung về Việt Nam và trở thành kênh quan hệ để Việt Nam giao lưu với Mỹ. Năm 1990, lượng kiều hối gửi về chỉ có 23 triệu USD, đến năm 1995 khi bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ đã tăng lên 285 triệu USD, gấp 12.4 lần. Tiếp đó, lượng kiều hối tiếp tục tăng nhanh chóng lên 5.5 tỷ USD vào năm 2007.[ 4] Ðể thúc đẩy lợi ích thương mại của Việt Nam tại Mỹ, đã có người kiến nghị Việt Nam nên tận dụng cơ chế vận động hành lang ở Mỹ, đặc biệt là thông qua lực lượng người Việt ở nước này. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb là người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc vận động chính trị của người Việt, cho rằng: "Mặc dù Việt Nam và Mỹ có bất đồng trong các vấn đề như nhân quyền, tôn giáo, tự do, nhưng Mỹ có hơn 2 triệu người gốc Việt.
Họ có thể làm cầu nối rất tốt giữa hai nước."
Dù vậy, người Việt tại Mỹ vẫn giữ thái độ tiêu cực đối với chế độ chính trị, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ thường yêu cầu chính phủ Mỹ khi trao cho Việt Nam lợi ích về kinh tế phải kèm theo điều kiện chính trị. Chẳng hạn, trước khi biểu quyết thông qua "Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn" (PNTR, tắt cho Permanent Normal Trade Relations.- Ghi chú của NBT] cho Việt Nam vào tháng 7, 2006, trên tờ USA Today, hơn 50 tổ chức của người Việt ở Mỹ bao gồm "Ðồng minh dân chủ Việt Nam" [đích thực là "Liên minh Dân chủ VN." Ghi chú của NBT], "Ủy ban Tự do Tôn giáo Việt Nam," "Hội đồng Nhân quyền Việt Nam" [có lẽ ý muốn nói "Mạng Lưới Nhân Quyền VN "- Ghi chú của NBT] đã công khai đăng bức thư gửi Tổng Thống Bush và Quốc Hội Mỹ, yêu cầu phía Mỹ quan tâm đến vấn đề nhân quyền, đưa ra những điều kiện tiên quyết cho PNTR, trong đó có thả tù nhân phạm tội về tôn giáo và chính trị, chấm dứt giam lỏng [chế độ quản chế - Ghi chú của NBT], cho phép và thừa nhận các hội độc lập, thực sự tự do báo chí... Phần cuối của bức thư này kêu gọi: "Nếu chưa làm được những điều trên, đề nghị từ chối cấp PNTR cho chính quyền độc tài cộng sản Việt Nam." Ðầu Xuân năm 2007, do chính phủ Việt Nam bắt giữ một số nhân sĩ tôn giáo, do sự hối thúc của nhiều nhóm người Việt, Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao Mỹ đã công khai phê phán chính phủ Việt Nam. Tổng Thống [George W.] Bush và Phó Tổng Thống [Dick] Cheney đã tổ chức cuộc gặp 45 phút với các tổ chức nhân quyền của người Việt ở Mỹ vào tháng 5, 2007. [5] Hạ Viện Mỹ đã thông qua nghị quyết lên án Việt Nam với tỷ lệ 404/404 phiếu thuận. Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Earl Blumenauer thuộc Ðảng Dân Chủ, trưởng ban liên lạc Quốc Hội Mỹ-Việt, cũng tuyên bố từ chức để phản đối việc làm của chính phủ Việt Nam. Trước khi Ngoại Trưởng Hillary đến thăm Việt Nam vào tháng 7, 2010, các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] như Loretta Sanchez, Barbara Boxer, Mel Martinez... [đích thật hai vị sau này là Thượng nghị sĩ - Ghi chú của NBT] đều yêu cầu Hillary nhắc nhở vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo với chính phủ Việt Nam - trên thực tế Hillary đã làm như vậy.
Người Việt ở Mỹ có tâm lý phức tạp đối với quê hương của họ. Ðiều này đã dẫn đến tranh cãi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng hạn, tháng 12, 1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, bang California [tên Trần Trường - Ghi chú của NBT] đã treo tấm ảnh Hồ Chí Minh cỡ lớn và cờ đỏ sao vàng Việt Nam tại cửa hàng của mình, dẫn đến hoạt động biểu tình quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu tình này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15,000 người tham gia, diễn ra 53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu tình yêu cầu ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS - Ghi chú của NBT] xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực hiện. Ngoài ra, Tạp chí "Thời Ðại" [tức tờ TIME - Ghi chú của NBT] đã đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do, từng bị cầm tù. "Ðảng Dân Chủ Việt Nam" ở Mỹ đã viết thư gửi tạp chí này để phản đối và đòi sửa lại bài viết trên.
Mặc dù hiện nay còn khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008 [6] dường như đã hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động chính trị của người Việt, bởi vì cơ cấu phiếu bầu của họ đã có dấu ấn thay đổi. Mặc dù nhìn chung sự ủng hộ của người Việt đối với Ðảng Cộng Hòa vẫn chưa thay đổi, nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm phía sau: Một mặt, người Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ John McCain, sự ủng hộ của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack Obama. Mặt khác, số phiếu ủng hộ của người Việt trẻ sinh ra ở Mỹ đối với Obama lại lên tới 69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ 18-29 cũng lên tới 60%. Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số (chiếm 15% và 25%), nhưng họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai. Ngoài ra, tính chất đảng phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt trên 45 tuổi muốn tham gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng ký là người của Ðảng Cộng Hòa. Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi theo Ðảng Dân Chủ hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng một nửa so với nhóm trên 45 tuổi. 
3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông) 
Nhìn chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai trò chính trị, ảnh hưởng của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt là so với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ góc độ vấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, quan hệ Trung Quốc với các nước Ðông Nam Á, thì sự vận động chính trị của người gốc Việt khá quan trọng. Bởi vì, tuy họ còn thiếu tích cực và thiếu khả năng mở rộng vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt Nam, nhưng họ lại là nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc Châu Á ở Mỹ về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.
Người Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19 tháng 4, 1958 [Sai, lẽ ra phải là ngày 14 tháng 9, 1958 - Ghi chú của NBT], Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng đã gửi công hàm cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc. Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại Giao Mỹ đã nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo "Báo Nhân Dân" [đích xác phải là "báo Nhân Dân."- Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự việc này ngay lập tức đã gây ra sự phản đối quyết liệt của người gốc Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của chính phủ Việt Nam là "bán nước." Sau này, vấn đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành một vấn đề quan trọng của người Việt ở Mỹ.
Mặc dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với Việt Nam, nhưng [họ] đều nhất trí cao về việc "bảo vệ tài sản của tổ tiên để lại," không dâng cho Trung Quốc. Ðúng như có học giả đã chi rõ: Về mặt bảo vệ "tài sản của tổ tiên," thái độ của người Việt ở nước ngoài là mạnh mẽ nhất. Ða số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX, có tâm lý chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm tình gì với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn cao giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đòi chủ quyền đối với hai quần đảo này, họ còn đòi chủ quyền toàn bộ Nam Hải.
Trong những năm 1991-1993 sau Chiến Tranh Lạnh, trong tình hình Mỹ đi đầu cấm vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đã nhìn thấy cơ hội té nước theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng "Tổng hội người Việt Nam ở nước ngoài" [đích xác là "Tổng Liên Hội Người Việt Tự Do," đã họp ở Canada và Washington, DC. Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực đó bị thất bại, từ năm 1995-2000, họ đã bốn lần tổ chức hội nghị trù bị [có lẽ tác giả muốn nói đến 4 lần Hội nghị Liên kết họp ở Virginia, Quận Cam, Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC - Ghi chú của NBT], có ý đồ xây dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ "quần đảo Trường Sa." Ðể phối hợp với tâm lý dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung quanh vấn đề Trường Sa, họ đã lần lượt tổ chức hai lần "Ðại hội bảo vệ lãnh thổ" [đích xác là "Hội nghị Diên Hồng Hải ngoại Bảo toàn Lãnh thổ "- Ghi chú của NBT] vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đã tổ chức biểu tình bên ngoài Lãnh Sự Quán Trung Quốc ở Houston. Ðương nhiên, những tổ chức này cũng ủng hộ hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam "bán nước," dâng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ những hoạt động nhiều lần biểu tình trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ về vấn đề Nam Hải là "Hiệp hội Người Việt ở hải ngoại" (?).Tổ chức này đã vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng rãi, cung cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đã thu được hiệu quả khá rõ rệt... Ví dụ, tháng 11, 2003, trong lúc diễn ra chuyến thăm Mỹ của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ chức này đã gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ, [7] hoan nghênh sự phát triển tích cực của quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phải quan tâm toàn diện: Về lý luận, tính chất của hai chính quyền vẫn khác biệt về bản chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên chế; hai nước vẫn còn tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân quyền, tự do tôn giáo, quyền chính trị của công dân... Bản kiến nghị ấy cũng cho rằng mục đích chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không phải là phát triển quan hệ song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung Quốc. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Ðông Á và Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Ðối ngoại của Thượng Viện Mỹ đã từng trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên. Việt Nam có ý nghĩa chiến lược đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chính sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt Nam hết sức quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, cũng hết sức quan trọng đối với việc ổn định khu vực Ðông Nam Á và Nam Hải. Tháng 7, 2009, Jim Webb đã chủ trì một cuộc điều trần về "Vấn đề chủ quyền và tranh chấp trên biển ở Ðông Á." Bài phát biểu của ông ta đã ảnh hưởng rõ rệt đến những người Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam, ông nói: "Những tranh chấp này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới có đủ khả năng và biện pháp chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy trì sự cân bằng địa chính trị trong khu vực, bảo đảm sự công bằng cho tất cả các quốc gia, bảo vệ tiếng nói của những quốc gia muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thì Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ này." Sau một tháng, trong thời gian thăm Việt Nam, Jim Webb một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Nam đối trọng với Trung Quốc."
Năm 2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung quanh vấn đề Nam Hải. Ðiều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4, 2009, các tổ chức như "Ðại hội Toàn quốc người Việt" [tức Nghị hội - Ghi chú của NBT], "Tiếng nói người Mỹ gốc Việt" ["Voice of Vietnamese Americans" trong tiếng Anh - Ghi chú của NBT], đã gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của họ đối với vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa - Ghi chú của NBT], đồng thời yêu cầu ông ta hãy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng 7, 2009, khi đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những người thuộc các tổ chức trên cũng đã đến gặp ông này. Khi đề cập đến vấn đề Nam Hải, ông nói: "Mỹ không thể đứng về bên nào," mà sẽ theo đuổi một "phương pháp giải quyết mang tính khu vực."
Tháng 12, 2009, "Ðại hội Toàn quốc người gốc Việt" [= Nghị hội] và một số tổ chức của người Việt khác đã gặp 6 nghị sĩ Ðảng Dân Chủ trong Quốc Hội (bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe Lofgren, Frank Wolf, Mike Honda). [8] Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề nhân quyền của Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam Hải. Tháng 6, 2010, "Ðại hội Toàn quốc người Việt" [= Nghị hội] một lần nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở Quốc Hội, gặp gỡ 6 nghị sĩ trên và Ủy ban Ðối ngoại của Thượng Viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu của cuộc gặp này là để hoàn chỉnh "phương án giải quyết vấn đề Nam Hải." Nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực Nam Hải là "Biển Ðông Nam Á"[9] để thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức một cuộc thảo luận giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan điểm, lập trường và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Ðông; (3) Tổ chức hội nghị quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở Biển Ðông - trừ Trung Quốc, để cùng "ngăn chặn hành động bá quyền của Trung Quốc" ở khu vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn Ðông Nam Á hoặc Nhật Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng nghị sĩ là thành viên chủ yếu của Ủy ban Ðối ngoại Thượng viện Mỹ đã ủng hộ nhiệt tình. Họ nói: "Các nước Ðông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía họ... Tuy nhiên, điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào. Có được một phương án toàn diện như các ngài nêu ra thì Mỹ mới có thể sẵn sàng ủng hộ."
Do Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch Luân phiên ASEAN năm 2010 nên vận động chính trị của người Việt ở Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải lại càng tích cực. Trong đó, tổ chức nổi bật hơn cả là "Hội Người Việt ở Bắc California." Ngày 20 tháng 5/2010, trước khi Ngoại Trưởng Hillary [Clinton] đến thăm Việt Nam tham dự Diễn đàn Khu vực Ðông Nam Á (ARF, tắt cho ASEAN Regional Forum - Ghi chú của NBT), tổ chức này đã kiến nghị Bộ Ngoại Giao và bà Hillary, mong muốn Mỹ giúp đỡ các ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt, lên án Hải Quân Trung Quốc và quan tâm đến tình hình Nam Hải. Sau khi Hillary lên tiếng can dự vào Nam Hải tháng 7, 2010, tổ chức này đã viết thư cho bà ta, trong thư có đoạn bày tỏ "cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất," đồng thời mong muốn Bộ Ngoại Giao Mỹ tiếp tục quan tâm đến vấn đề này.
Cuộc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải đã mang lại hiệu quả rộng lớn. Ðiều này không những thể hiện trong tuyên bố của bà Hillary rằng Nam Hải liên quan đến "lợi ích quốc gia," đồng thời yêu cầu thông qua diễn đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu vực này mà còn thể hiện trong việc họ đã động viên các nhóm dân tộc khác ở Mỹ tác động lên Quốc Hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải. Ví dụ, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb vốn luôn ủng hộ các yêu cầu của người Việt ở Mỹ, một lần nữa lại đến thăm Việt Nam vào trung tuần tháng 4, 2011. Trong thời gian chuyến thăm, ông ta không những nói về tranh chấp Nam Hải mà còn mở rộng nội dung sang vấn đề xây dựng đập thủy điện lớn trên sông Mê Công. Một ví dụ khác là tính đến nay, nhiều người Mỹ gốc Indonesia, Malaysia, Philippines... đã ký tên đòi đổi tên gọi Nam Hải thành "Biển Ðông Nam Á" theo đề xuất của "Ðại hội Toàn quốc của người Việt ở hải ngoại" [= Nghị hội?- Ghi chú của NBT]. Do đó, có thể nhận thấy rất rõ ràng mặc dù Mỹ có chánh sách mang tính hệ thống, nhưng việc vận động chính trị của người Việt xung quanh vấn đề Nam Hải có liên quan chặt chẽ đến căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, Trung Quốc-ASEAN về vấn đề Nam Hải.
Ðương nhiên, cũng cần thấy rằng, trong số người Mỹ gốc Việt cũng có một bộ phận nhỏ có vai trò tích cực trong việc hạn chế những nỗ lực vận động hành lang của tổ chức như "Ðại hội Toàn quốc người [Mỹ] gốc Việt" [= Nghị hội - Ghi chú của NBT], đó là "Người Mỹ gốc Việt-Trung." Như đã phân tích ở trên, nhiều người Việt ở Mỹ có gốc gác là người Hoa. Do đó, họ phải xác lập sự đồng thuận phức tạp hơn so với những nhóm người chỉ có một tổ quốc. Người Việt gốc Hoa đều có tình cảm với Việt Nam và Trung Quốc, do đó, họ không muốn thấy quan hệ hai nước xấu đi, hoặc các nhân tố khác làm mối quan hệ này xấu đi. Do đó, sự lựa chọn của họ thường là làm cầu nối giữa người Việt với người Việt gốc Hoa, tìm cách lấy khuôn khổ rộng lớn hơn là người Mỹ gốc châu Á để hòa giải và điều chỉnh hành động chính trị giữa người gốc Việt và người Việt gốc Hoa. Trong đó, tổ chức nổi tiếng là "Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Hoa Việt-Lào-Campuchia" (IAPAC, tức Indochinese American Political Action Committee - Ghi chú của NBT). Tổ chức này do người Việt gốc Hoa, người Lào gốc Hoa và người Campuchia gốc Hoa ở Mỹ thành lập năm 2000. Họ động viên người Việt, người Lào, người Campuchia gốc Hoa tham gia vào nền chính trị Mỹ ở tầm rộng lớn hơn. Do lý lịch đa quốc gia của các thành viên, IAPAC có mục tiêu chủ yếu là đoàn kết người Hoa từng sống ở những quốc gia khác nhau, không vì lợi ích nhỏ hẹp của từng nhóm người. Từ khi thành lập năm 2000 đến nay, tổ chức này đã quyên góp thành công để ủng hộ rất nhiều ứng cử viên chính trị như: Các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Judy Chu (Ðảng Dân chủ, bang California), Adam Schiff (Ðảng Dân Chủ, bang California) và một số dân biểu bang California như Mike Eng, Trần [Thái] Văn, Nguyễn Phó (LS. Nguyễn Văn Phổ?)... Do nỗ lực của những tổ chức trên của nhóm người Việt gốc Hoa, ảnh hưởng của người gốc Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải cũng bị hạn chế nhất định. 
4. Kết luận 
Sự vận động mang đặc điểm chính trị trong nội bộ nước Mỹ đang ngày càng được các tổ chức của những nhóm dân tộc ít người vận dụng thành thạo. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ảnh hưởng của các cuộc vận động này thường không chỉ hạn hẹp đối với quê hương của họ. Như đã phân tích trong bài viết này, do đặc điểm của quá trình di dân, địa vị kinh tế và quá trình tham gia chính trị, người gốc Việt ở Mỹ có đặc điểm vận động chính trị chống lại tổ quốc trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, nhưng diễn biến tình hình sau đó phức tạp hơn. Một mặt, họ không phản đối, thậm chí là ủng hộ sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước, mặt khác lại có ý đồ gắn kèm theo một số điều kiện chính trị. Do tâm lý phức tạp trên, ảnh hưởng của các cuộc vận động chính trị của người gốc Việt đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam bị hạn chế nhiều.
Tuy vậy, không thể vì thực tế trên mà coi thường các cuộc vận động chính trị của họ. Bởi vì, ảnh hưởng của họ rất quan trọng đối với tranh chấp Nam Hải. Ngoài người Việt gốc Hoa, đa số người gốc Việt đều nhất trí phản đối Việt Nam "nhượng bộ" Trung Quốc. Ngoài ra, họ còn có ý đồ vận động chính phủ Mỹ phát huy vai trò tích cực hơn trong tranh chấp Nam Hải, có ý đồ đưa ra "phương án giải quyết toàn diện" vấn đề này. Ảnh hưởng sâu rộng hơn, đáng quan tâm hơn là những nỗ lực của họ có thể động viên dân di cư gốc Ðông Nam Á đang sinh sống tại Mỹ hành động về quyền lợi của quê hương họ ở Nam Hải, dẫn đến quốc tế hóa tranh chấp Nam Hải, đồng thời tranh chấp Nam Hải trở thành công việc của nội bộ nước Mỹ.
Chú thích
[1] Tác giả bài báo đang muốn nói đến tổ chức "Americans Friends of Vietnam" (AFV) là một tổ chức vận động hành lang dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, được tài trợ một phần bởi chính quyền Ngô Ðình Diệm.
[2] Một đặc điểm của bài nghiên cứu này là không đưa được ra tên chính thức của các tổ chức người Mỹ gốc Việt. Lý do gần như chắc chắn là tại vì các tác giả của bài viết đã phải dịch từ các nguồn tin bằng tiếng Anh nên họ đã không biết tên thật của các tổ chức của người Việt hải ngoại. Vì vậy nên chúng tôi đã cố gắng cung cấp các tên chính thức này cho người đọc có thể nhận diện được dễ dàng các tổ chức được nhắc đến trong bài báo.
[3] Thông tin này không chính xác. Ông Ðoàn Văn Toại chỉ bị bắn trọng thương, sau đó đã phục hồi.
[4] Theo một nguồn tin chính thức thì tiền kiều hối gởi về trong nước đã lên đến gần 10 tỷ đô la (9.6 tỷ) trong năm 2011. Tuy nhiên, phải biết là chỉ khoảng hơn nửa số tiền này là do người Việt ở Mỹ gởi về, chỗ còn lại có những nguồn như từ Âu Châu, Úc Châu và nhất là từ Ðông Âu và Liên Bang Nga.
[5] Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng Thống Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney đã gặp các ông Lê Minh Nguyên (Mạng Lưới Nhân Quyền VN), ông Ðỗ Hoàng Ðiềm (Ðảng Việt Tân), ông Ðỗ Thành Công (Ðảng Dân Chủ Nhân Dân) và BS Nguyễn Văn Ngãi (Ðảng Dân Chủ VN). GS Ðoàn Viết Hoạt (IIV, tức International Institute for Vietnam) có được mời nhưng không tham dự.
[6] Ðây là một bằng chứng bài viết do nhiều người phác thảo xong được gom lại. Vì thế nên nếu đoạn cuối bài nói đến những sinh hoạt cập nhật hơn thì đoạn này còn đang nói về cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc năm 2008.
[7] Tưởng cũng nên nhắc là trước khi bà cho ông Phạm Văn Trà đến gặp, nữ Dân Biểu Nancy Pelosi, lúc bấy giờ là chủ tịch Hạ Viện Mỹ, đã có cuộc gặp gỡ trước để trao đổi với một phái đoàn của người Mỹ gốc Việt gồm Pháp sư Thích Giác Ðức thuộc Văn phòng II, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, ông Nguyễn Ngọc Bích đại diện cho Nghị hội và ông Ðỗ Hoàng Ðiềm, chủ tịch đảng Việt Tân.
[8] Trong số những nhân vật này chỉ có một người là thượng nghị sĩ, ông Sam Brownback thuộc Ðảng Cộng Hòa, còn năm vị kia đều là dân biểu, hai người thuộc Ðảng Dân Chủ (Zoe Lofgren và Mike Honda) còn ba người thuộc Ðảng Cộng Hòa (Chris Smith, Ed Royce và Frank Wolf).
[9] Cuộc vận động đổi tên Biển Ðông hay Nam Hải thành một tên quốc tế là "Biển Ðông Nam Á" (Southeast Asia Sea) chính thật là một sáng kiến của Nguyễn Thái Học Foundation đã được đưa lên Petition on Line trên Mạng Lưới Toàn Cầu. Tính đến nay, sáng kiến này đã thu hút được 54 nghìn chữ ký đến từ trên 100 quốc gia trên thế giới, gồm rất nhiều người ký tên gốc Ðông Nam Á. Nghị hội vì đồng ý với cuộc vận động này nên cũng đã mang lên vận động trên Quốc Hội Hoa Kỳ và lấy được sự đồng tình của không ít dân biểu nghị sĩ Mỹ trong vấn đề này.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=143236&z=1

__._,_.___
Recent Activity:
.

__,_._,___



2 comments:

  1. From: Dzung T
    Sent: Sunday, January 22, 2012 9:43 AM
    Subject: [Exryu-ww-Forum] Việt Nam không thiếu trí thức

    Sự khác biệt giữa "tiến hóa" và "bạo lực cách mạng" đã đượcTrần Huỳnh Duy Thức (THDT) đề cập thế nào

    Xin giới thiệu một lối suy nghĩ về tính "diễn biến hòa bình" mà người CS đệ 3 (Leninist, Stalinist) đã tìm đủ mọi cách tiêu diệt từ đầu. Và đó chính là 1 trong nững lý do THDT bị bắt

    0o0

    Tôi chưa bao giờ là "fan" của THDT, nhưng xin giới thệu bài viết, để cho thấy VN không thiếu những người hiểu được những sai lầm chính trị, và kinh tế của CSVN.

    0o0

    Sự thực là,

    Người Mỹ, người Tàu Cộng đã đi xa hơn trong việc nghiên cứu xã hội VN để thao túng.

    Về phần Mỹ:

    Chính vì hiểu được sự mâu thuẫn sâu đậm giữa Tàu Cộng và Việt Cộng, để không thể nào có một vụ đổ domino sau khi bỏ Miền Nam (VNCH) mà ts H. Kissinger đã thuyết phục được tt R. Nixon bỏ rơi Miền Nam. Trên thực tế lúc đó, Mỹ đang bị hầu như cả thế giới chống đối, và nội bộ nước Mỹ đã phân rẽ cùng cực... Cộng thêm, đòn chiến lược để đánh tan liên minh Nga-Hoa, là 1 trong những yếu tố đưa đến sự đổ vỡ của khối cộng sản Âu Châu do Nga lãnh đạo ...


    Về phần Tàu: xin mời đọc bài phân tích về cộng đồng người Việt tỵ nạn CS tại Mỹ sau đây. Sự phân tích "chuyên nghiệp", thấu đáo về mặt hiện tượng, nhưng chưa đủ về mặt "hồn".

    Người Pháp, người Mỹ không thành công tại VN vì "phần hồn". Về phần xác, nhóm này đã làm cho VN tơi tả, nhưng họ đã quá coi thường văn hóa và con người VN, nên khi CSVN lợi dụng được, chiếm được "sợi chỉ" buộc chân voi, thì họ đã thất bai dù có đủ mọi thứ quyến rũ

    Người Tàu không thành công tại VN vì cả phần hồn lẫn phần xác. Nhưng Tàu Cộng rất bẩn, không ăn được phá cho hôi, ăn được phá cho nát. Cộng thêm với một số người Việt nô lệ Tàu nằm vùng, nên rất nguy hiểm. Lịch sử đã cho thấy 1 đa số người Tàu đã cam tâm làm nô lệ cho Mông Cổ, nhà Thanh ... trong nhiều trăm năm, tàn ác cực kỳ với đồng bào của chính họ. Thử nhìn, dưới chế độ cộng sản, họ lại tự giết nhau kinh hoàng thế nào. Do đó, không phải chỉ vì chủ thuyết, mà vì lòng tàn ác của con người....

    0o0

    Những điều THDT trình bày, tôi tin rằng, người CSVN, hay thẳng ra cộng sản Hà Nội hểu lắm, biết lắm. Những "trí thức" trong nhóm bauxite VN, hay Nguyễn Thanh Giang, Thanh Thảo, Hoàng Tụy, Chu Hạo ... làm gì mà không hiểu

    0o0

    Nhưng người cộng sản VN mượn chủ thuyết Marx để cướp chính quyền, dựa vào phong trào cộng sản quốc tế để cướp chính quyền... Họ giết người Việt vì muốn cướp chính quyền, tài sản ...

    Mấy "của nợ" Adam Smith, Karl Marx (kinh tế gia) ... chỉ là cái nhãn bọc đồ nhái thôi

    0o0

    Trí thức có cái hay là đọc được, hiểu được cái nào là đồ thật, cái nào là đồ dỏm, cái nào là đồ nhái

    Nhưng bọn con buôn mới là giới làm lời qua các món hàng này

    Người dân vừa là công nhân, vừa là người tiêu thụ

    Chính trị gia VN từ sau 1945, một phần bị thực dân Pháp phối hợp cùng Nhật, sau đó là Tàu, Pháp, Mỹ sơi tái, chín đủ món.

    Còn lại toàn là giới buôn máu và xác dân. Giới làm chính trị tại VN 9 trên 10 là mafia, đỏ hay xanh mà thôi

    Lương Sơn Bạc kiểu Tống Giang hay Lý Quì mà thôi

    Chiêu bài hãng buôn máu xương của nhóm cộng sản VN là lớn nhất (chi nhánh quốc tế), nhưng đó chỉ là môn bài mà thôi

    0o0

    ReplyDelete
  2. (tiep theo)


    Tuy vậy, dù gì cũng cần người trí thức. Xã hội nào bắn chết trí thức sẽ trở thành xã hội nô lệ. Xã hội nào bỏ tù trí thức sẽ là một xã hội bị tù đầy

    Truyền thống của các triều đại vua chúa VN là bắt trí thức làm tay sai. Ngay cả thời ông Ngô Đình Diệm. Nhưng trí thức dưới thời cộng sản còn xuống cấp hơn nữa. Bị đối xử như những con bò


    (Xin nhắc lại, chính là nhờ câu nói này mà nhà văn Nguyễn Huệ Chi xác nhận tư cách làm người của ông ta, dù là một con người bị mất tự do)

    0o0

    Một câu nói của Cường đô la, bàu Đức, bàu Kiên cân bằng cả ngàn tiến sỹ, giáo sư ... hợp lại

    Đúng vô cùng khi có ai nói, nghề thiến heo, bán bia, làm y tá còn "ngon côm" hơn mấy bằng luật sư (Cù Huy Hà Vũ), kỹ sư (Đoàn Văn Vươn) ... rất rất nhiều

    0o0

    Thê thảm và đáng nhục nhất, không phải là những khoa bảng trí thức đang sống trong chế độ, mà là các "trí thức yêu nước" chưa tỉnh giấc mộng Nam Kha, miệng ngậm bánh vẽ quá đát, họp nhau làm kiến nghị, ca tụng XHCN, hay chửi cộng đồng người Việt tỵ nạn. Thuốc nào mà chữa được đây ?

    D~

    ReplyDelete