Thứ ba, 27 Tháng 9 2011 18:10          
Bài phân tích trên mạng thông tin tình báo Stratfor "India, Vietnam: Testing China's Patience"  cho rằng, những rắc rối trong quan hệ ngoại giao Trung - Ấn trong vài  tháng gần đây liên quan đến việc thăm dò dầu khí tại Biển Đông đã làm  nổi bật lên việc Việt - Ấn tăng cường quan hệ. Mặc dù Biển Đông đối với  Ấn Độ chỉ là vấn đề thứ yếu, tuy nhiên đây lại là một phần trong chính  sách "Hướng Đông" của nước này nhằm đối chọi lại với Trung Quốc. Bên  hưởng lợi chính là Việt Nam.
 
ÂĐ  đã coi nhẹ sự phản đối của TQ đối với liên doanh thăm dò dầu khí ÂĐ -  Việt Nam tại Biển Đông, nói rằng liên doanh đã hoạt động từ năm 1988 và  không có kế hoạch ngưng hoạt động. TQ, thông qua báo chí của mình, coi  liên doanh là sự khiêu khích nghiêm trọng. Thực tế là công ty dầu khí ÂĐ  và PetroVietnam đã ký hợp đồng có hiệu lực 7 năm từ năm 2006 mà không  có bất cứ sự phản đối ngoại giao đáng kể nào từ TQ. Căng thẳng ngoại  giao giữa các cường quốc trong khu vực liên quan đến vấn đề thăm dò dầu  khí và khoáng sản tại các vùng biển tranh chấp vẫn xẩy ra, đáng chú ý  lần này là việc Việt - Ấn tăng cường quan hệ. ÂĐ dường như muốn hướng về  Việt Nam nhằm tăng cường sự hiện diện tại ĐNÁ và nhằm chống lại ảnh  hưởng của TQ tại khu vực, trong khi Việt Nam coi ÂĐ như một đối tác tự  nhiên khi nước này muốn đảm bảo an ninh tại Biển Đông. 
Việt  - Ấn là đối tác chiến lược ổn định trong hơn một thập niên qua, tuy  vậy, việc hai nước tăng cường trao đổi đoàn cấp cao trong tháng qua cho  thấy cả hai bên dường như muốn thúc đẩy việc tăng cường quan hệ, đặc  biệt trong vấn đề an ninh. Nguyên nhân có thể là do sự mạnh bạo gần đây  của TQ tại Biển Đông và ý định của nước này muốn kiềm chế môi trường  chiến lược của ÂĐ và Việt Nam.
Mặc  dù Biển Đông có vai trò quan trọng chiến lược đối với Việt Nam nhưng  nơi này hiện không có ý nghĩa chiến lược quan trọng với ÂĐ về mặt an  ninh và năng lượng. Đối với ÂĐ, việc liên minh với Việt Nam thể hiện  mong muốn can dự vào một vấn đề đang ngày càng được quốc tế hóa, qua đó  có được một chỗ đứng trong khu vực và giúp cân bằng ảnh hưởng với TQ,  qua đó xử lý nhiều vấn đề chiến lược khác của mình như tranh chấp lãnh  thổ với TQ hoặc buộc TQ phải điều chỉnh chiến lược của mình trong các  vấn đề tại Ấn Độ Dương, Nam Á… Ngoài ra, trong chính sách "Hướng Đông"  của mình, quan hệ quốc phòng tay ba giữa ÂĐ - Mỹ và NB là nhằm kiềm chế  TQ. Đưa Việt Nam vào mối quan hệ này sẽ giúp các nước tiếp cận được các  căn cứ quân sự vùng bờ biển Việt Nam, cùng với chính sách tái can dự khu  vực CÁ - TBD của Mỹ, việc ÂĐ tăng cường can dự vào vấn đề sẽ giúp ÂĐ có  lợi ích về kinh tế cũng như mở rộng môi trường chiến lược của mình.
TQ,  nước đặc biệt nhạy cảm với sự can dự của cường quốc bên ngoài với Việt  Nam, đã đưa ra cảnh báo của mình. Sự kiện vụ đụng độ giữa tàu TQ - ÂĐ  (nếu thực sự đã diễn ra) là một thông điệp không chỉ cảnh cáo ÂĐ mà còn  nhằm tới Việt Nam. Tuy ÂĐ không có nhiều lựa chọn, nhưng việc gia tăng  lợi ích của nước này tại các vấn đề khu vực ĐNÁ cũng như nhu cầu chiến  lược để cân bằng ảnh hưởng với TQ sẽ giúp họ có được kết quả. 
Tuy  Việt Nam - ÂĐ cùng chia sẻ lợi ích chung và muốn tăng cường quan hệ  quân sự, sự khác biệt trong các ưu tiên cũng như yếu tố TQ sẽ khiến hai  nước không đi quá nhanh và quá xa.
Theo Stratfor
Trần Quang (gt)
==========================================================
http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2090-2090-
    Thứ năm, 29 Tháng 9 2011 08:11          
Bài  viết của TS. Ngô Triệu Lễ, Ban châu Á-Thái bình Dương, Viện Khoa học xã  hội Trung Quốc, đánh giá về động cơ của Ấn Độ trong việc can dự vào  Biển Đông, quan hệ  Ấn Độ - Việt Nam và Ấn Độ - Trung Quốc trong bối  cảnh Công ty dầu khí quốc doanh Ấn Độ chuẩn bị vào khai thác dầu khí ở  thềm ục địa của Việt Nam nhưng bị Trung Quốc phản đối.
Ngày  15/9/2011 trong thời gian Ngoại trưởng Ấn Độ Krishna ở thăm Việt Nam,  báo Ấn Độ "Hindustan Times" đưa tin Công ty dầu khí quốc doanh của Ấn Độ  (ONGC) có kế hoạch vào khai thác dầu khí trong vùng biển tranh chấp ở  Biển Đông đồng thời cho biết kế hoạch đã được Việt Nam cho phép. Ngày  16/9 Ấn Độ và Việt Nam quyết định tăng cường hợp tác khai thác dầu khí,  đồng thời quyết định sẽ tiếp tục dự án hợp tác ONGC. 
Từ  lâu nay thái độ của Ấn Độ trong vấn đề Biển Đông tương đối rõ ràng,  nghĩa là ủng hộ tự do hàng hải ở Biển Đông, hy vọng các bên tôn trọng  "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" ký kết năm 2002. Có  thể nói, lập trường của Ấn Độ trong vấn đề Biển Đông là phù hợp với chủ  trương nhất quán của Trung Quốc. Tuy nhiên phía sau nguyên tắc, Ấn Độ đã  làm một "động tác nhỏ", đúng như báo chí Ấn Độ đã nói dự án ONGC là lần  đầu tiên Ấn Độ nhảy vào vòng tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam  trong vấn đề Biển Đông. 
Việt Nam là trụ cột quan trọng cho "chính sách hướng Đông" của Ấn Độ 
Tại  buổi họp báo về việc Ngoại trưởng Ấn Độ đi thăm Việt Nam tổ chức ngày  15/9, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Ấn Độ tuyên bố đối với Ấn Độ, quan  hệ với Việt Nam là một trụ cột then chốt và cực kỳ quan trọng. Có thể  nói trong quan hệ với các nước ASEAN, cách xác định quan hệ như trên quả  là có một không hai. Trong bối cảnh Ấn Độ thực thi "chính sách hướng  Đông" và Việt Nam phát triển không gian sang phía Tây, hai nước Việt  Nam-Ấn Độ trước đây vốn đã rất tâm đầu ý hợp, nay nhu cầu chiến lược cần  nhau được tăng cường, lợi ích chung gặp gỡ tăng lên, cả hai đều xác  định lại quan hệ song phương bằng góc nhìn chiến lược hoàn toàn mới.  Nhất là trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng phát triển, thực lực không  ngừng tăng lên, hai nước đều đang có tranh chấp lãnh thổ hoặc lãnh hải  chưa giải quyết được với Trung Quốc, nay hình thành mối quan hệ hợp tác  chặt chẽ, nếu nói đó là mối quan hệ "đoàn kết nương nhờ nhau" cũng là  điều hết sức bình thường. 
Tính  đến nay, hai nước đã cùng tổ chức 6 lần "Đối thoại chiến lược quốc  phòng", 2 lần "Đối thoại chiến lược" và 5 lần "trao đổi ngoại giao". Đặc  biệt sau khi hai nước ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng vào  tháng 11 năm 2009, giao lưu hợp tác quân sự song phương tăng lên rõ rệt.  Tháng 7/2010 Tư lệnh lục quân Ấn Độ lần đầu tiên sau 10 năm đi thăm  Việt Nam; Tháng 7/2011, Việt Nam mời tàu tấn công đổ bộ "INS Airavat"  đến Việt Nam. Ủng hộ nhau về chính trị, dựa vào nhau về an ninh trở  thành đặc điểm nổi bật nhất trong quan hệ Ấn Độ-Việt Nam. Việt Nam là  sợi dây nối quan trọng để Ấn Độ phát triển quan hệ với các nước ASEAN. 
Quan hệ Trung - Ấn có cả cơ sở lẫn lo ngại 
Từ  năm 2011 đến nay quan hệ song phương giữa Trung Quốc và Ấn Độ phải nói  tương đối bình lặng. Trên cơ sở cùng tổ chức "Tết Trung Quốc" tại Ấn Độ  và "Tết Ấn Độ" tại Trung Quốc năm 2010, hai bên lại đã xác định năm 2011  là "Năm giao lưu Trung-Ấn". Hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực kinh  tế thương mại phát triển nhanh chóng, kim ngạch thương mại song phương  năm 2010 đạt 61,7 tỉ USD, trên cơ sở đó trong 8 tháng đầu năm nay đã đạt  48,16 tỉ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước. 
Tuy  thế, giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng có lo ngại. Việc giữa Trung Quốc và  Pakixtan hình thành mối quan hệ đối tác "trong mọi điều kiện" trong bối  cảnh Ấn Độ và Pakixtan đối đầu nhau đã bị Ấn Độ giải thích là Trung Quốc  dựa vào Pakixtan đối đầu với Ấn Độ, nhất là giải thích việc Trung Quốc  tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng ở các nước Đông Á là nhắm vào quy hoạch  chiến lược của Ấn Độ, cho rằng Trung Quốc thực thi "chiến lược chuỗi  ngọc trai" bao vây Ấn Độ. Hơn nữa, những tác động tiêu cực từ những vấn  đề hiện thực như vấn đề biên giới, Đạtlai Lạtma, mất cân bằng thương mại  và hiện đại hóa quân đội còn tồn tại giữa hai nước là không thể xem  thường. Mức độ tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa Trung Quốc và Ấn Độ  thấp, giao lưu phi chính thức có hạn khiến cho chiều sâu hợp tác trong  khuôn khổ song phương giữa hai nước bị hạn chế, còn tồn tại cạnh tranh,  thậm chí còn đối đầu ở mức độ nhất định. 
Mục  đích của việc Ấn Độ thúc đẩy dự án ONGC là không những có thể khéo léo  ủng hộ Việt Nam, nước hiện nay đang có quan hệ "keo sơn" với Ấn Độ, mà  còn có thể dựa vào đó để tỏ cho Trung Quốc thấy rằng trong vấn đề liên  quan đến quan hệ song phương giữa Trung Quốc và Ấn Độ, Ấn Độ cũng có  "con bài" khác để chơi. Một số chính khách Ấn Độ cho rằng cần phải cảnh  giác trước biện pháp ngoại giao khéo léo mà cứng rắn của Trung Quốc. Có  học giả còn đề xuất chủ trương phải thành lập "Tổ chức hợp tác Hà Nội"  với Việt Nam và một số nước khác để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc.  Một số nhân vật "diều hâu" trong quân đội cho rằng Ấn Độ không thể đối  phó thách thức của Trung Quốc bằng thái độ mềm yếu và biệt lập, Ấn Độ  cũng có quyền tổ chức "chuỗi ngọc trai" của riêng mình bao vây Trung  Quốc. 
Có  tương đối nhiều học giả Ấn Độ đã biết rõ rằng "Việc Ấn Độ đâu đâu cũng  bố trí phòng vệ trước Trung Quốc sẽ làm cho họ sắp trở thành người thua  cuộc, nếu xét về lâu về dài", nhưng Ấn Độ muốn thấy mình ở vào một ưu  thế chiến lược nào đó trong khi xử lý quan hệ với Trung Quốc. Ấn Độ cũng  đang lợi dụng tâm lý lo lắng của một số nước trước việc Trung Quốc thể  hiện thực lực sau khi họ đã lớn mạnh để phát triển không gian chiến lược  cho bản thân mình. Trên thực tế, Việt Nam dùng Ấn Độ để tìm điểm cân  bằng, Ấn Độ cũng dựa vào Việt Nam để "nhìn về hướng Đông"; Việt Nam coi  Ấn Độ là lực lượng quan trọng để cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc, Ấn  Độ muốn lợi dụng vị trí địa lý của Việt Nam để mở rộng sự có mặt và ảnh  hưởng của mình ở khu vực Đông Nam Á. Ấn Độ xem Việt Nam là một tiếp điểm  then chốt để phá vỡ cái gọi là "chiến lược chuỗi ngọc trai" của Trung  Quốc. 
Biển Đông không phải là "trà trong cốc" của Ấn Độ 
Việc  Ấn Độ bước vào Biển Đông hoàn toàn không có nghĩa là họ đã làm tốt công  tác chuẩn bị từ các phương diện tâm lý và vật chất để đối đầu với Trung  Quốc ở Biển Đông. Học giả Ấn Độ Raman cho rằng trong vấn đề về các đảo  tranh chấp ở Biển Đông, đến Mỹ là nước có thực lực hải quân vượt xa Ấn  Độ cũng giữ lập trường trung lập. Trong cuộc đối đầu với Trung Quốc,  Việt Nam không có khả năng bảo vệ Công ty dầu khí của Ấn Độ, trong khi  các đảo tranh chấp lại ở xa Ấn Độ, nhưng lại gần Trung Quốc, hải quân Ấn  Độ trước mắt cũng không có khả năng bảo vệ cho Công ty dầu khí của Ấn  Độ. Raman thậm chí cho rằng dù có nhằm để yêu cầu Trung Quốc "ngừng các  hoạt động kiểm soát vùng Casơmia ở Pakixtan" thì Ấn Độ cũng không nên có  ý đồ đối kháng Trung Quốc ở Biển Đông, vì Biển Đông không phải là "trà  trong cốc" của Ấn Độ./.
  Theo báo "Quốc phòng Trung Quốc" (ngày 20/9/2011)
 Viết Tuấn (gt)
====================================================
    Thứ bảy, 01 Tháng 10 2011 08:55
Miles Yu
28-09-2011
Bài báo hàng đầu trên Hoàn Cầu Thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng  Cộng sản Trung Quốc, hôm thứ Ba có lời kêu gọi gây hoang mang về tuyên  bố chiến tranh chống Việt Nam và Philippines, hai nước mà trong các tuần  gần đây đã có những lời phản đối to nhất, chống lại các tuyên bố chủ  quyền toàn bộ trên biển Đông (nguyên văn: Nam Hải) của Trung Quốc.
Tựa đề "Đã đến lúc sử dụng vũ lực ở biển Đông; Hãy tiến hành chiến tranh với Philippines và Việt Nam để ngăn chặn có thêm chiến tranh",  bài báo của tác giả Long Tao, một bút danh có thể dịch theo nghĩa đen  là "Lời giáo huấn của rồng". Cái tên này muốn ám chỉ đến chương thứ ba  trong tác phẩm cổ điển quân sự cổ đại Trung Quốc nổi tiếng: "Sáu giáo lý  bí mật quân sự", rằng ngoài những thứ khác, thúc đẩy ý tưởng về cách  tốt nhất để tạo ra sự kinh hoàng trong quân sự là tiêu diệt những kẻ bất  đồng cao cấp nhất.
Việt Nam được Trung Quốc coi như một nước có khả năng quân sự nhất,  đất nước mà chính phủ kiên quyết nhất về chính trị, liên quan đến thách  thức tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông.
Gần đây, Philippines đã chọc tức Trung Quốc rất nhiều vì gần gũi  với Nhật Bản, và hành động thành công và khó chịu [của Philippines] hồi  tuần trước là tổ chức các cuộc hội đàm với ASEAN mà không mời Trung  Quốc, hợp tác và làm rõ các tuyên bố tranh chấp, cũng như đồng thuận về  vấn đề biển Đông.
Lời nói bốc lửa trong bài viết "Biển Đông là nơi tốt nhất để Trung Quốc tiến hành chiến tranh"  là vì "hơn 1.000 giàn khoan dầu ở đó, không có cái nào thuộc về Trung  Quốc, bốn sân bay ở quần đảo Trường Sa, không sân bay nào thuộc về Trung  Quốc, một khi tuyên bố chiến tranh, biển Đông sẽ là một biển lửa [đốt  giàn khoan dầu]. Ai sẽ gánh chịu nhiều nhất từ một cuộc chiến? Một khi  chiến tranh bắt đầu ở đó, các công ty dầu phương Tây sẽ chạy khỏi khu  vực, ai sẽ chịu thiệt thòi nhất"?
Bài viết này tiếp tục tính toán rằng, "các cuộc chiến tranh nên  tập trung tấn công vào Philippines và Việt Nam, là hai nước gây rối  nhiều nhất, để đạt được hiệu quả của việc giết một con gà để dọa con khỉ".
Về khả năng có thể có sự can thiệp của Mỹ khi Trung Quốc bắt đầu  một cuộc chiến ở biển Đông hay không? Theo như bài báo thì, không có gì  phải lo, vì Mỹ hoàn toàn không thể mở một mặt trận thứ hai ở biển Đông  để đánh Trung Quốc vì Mỹ bị sa lầy trong cuộc chiến chống khủng bố ở  Trung Đông.
Hoàn Cầu Thời báo là tờ báo lớn nhất của Trung Quốc, tập trung vào  tin tức quốc tế, dưới sự bảo trợ trực tiếp từ Trung ương Đảng Cộng sản.
Ngọc Thu dịch từ Washington Times
==============================================
http://www.seasfoundation.org/news-about-south-east-asia-sea/actions-from-other-countries/1367-nht--ngh-thanh-lp-din-an-an-ninh-bin
Thứ sáu, 30 Tháng 9 2011 11:47
TT - Ngày 29-9, kết thúc Hội nghị quốc phòng ASEAN -  Nhật Bản cấp  thứ  trưởng lần 3 diễn ra hai ngày tại thủ đô Tokyo (Nhật  Bản), các đại   biểu đều cho rằng đối với các tranh chấp trên biển Đông  cần phải giải   quyết hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, cần có  cách hiểu thống   nhất và thực hiện nghiêm Công ước Liên Hiệp Quốc về luật  biển 1982.
Theo TTXVN, tại hội nghị, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh -  thứ trưởng Bộ   Quốc phòng VN - nêu rõ đối với các vấn đề an ninh khu vực  nói chung   cũng như vấn đề an ninh biển nói riêng, Việt Nam ủng hộ mạnh  mẽ và tích   cực tham gia trên cơ sở luật pháp quốc tế và trong khả năng  của mình.   Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh cũng đã có cuộc tiếp xúc với Thứ  trưởng Bộ   Quốc phòng Nhật Bản Kimito Nakae để thảo luận việc thúc đẩy  hợp tác   quốc phòng giữa hai nước trong thời gian tới.
Cùng ngày, báo Yomiuri  Shimbun cho biết Chính phủ Nhật  kêu gọi thành  lập diễn đàn an ninh  biển trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á  (EAS) diễn  ra ở Indonesia vào  giữa tháng 11-2011. 
Nhật Bản, Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và các nước ASEAN sẽ có mặt trong EAS, Mỹ và Nga sẽ tham gia lần đầu tiên.
theo TTO
==================================================
http://www.seasfoundation.org/news-about-south-east-asia-sea/actions-from-china/1366-nnc-dng-danh-dy-qchuyen-gia-trung-quc-thi-c-dung-v-lc--bin-ong-a-chin-muiq
    Thứ sáu, 30 Tháng 9 2011 11:13
Nguồn: Mạng Nhân Dân,     Mạng Chinacom.. và một số mạng chính thức khác cùng đăng tải ngày 27     tháng 9 năm 2011 
  Trước những năm 70 của thế kỷ trước,     không có vấn đề Biển Đông, mọi  nước trên thế giới đều không dị nghị     đối với đề xuất chủ trương chủ  quyền "đưòng lưỡi bò" trong Biển     Đông. Biển Đông sở dĩ thành "vấn  đề" nguồn gốc là ở chính quyền Nam     Việt và sau này, sau khi Việt Nam  độc lập, xâm phạm các đảo bãi Nam     Sa. Trung Quốc và đề xuất yêu cầu  chủ quyền đối với Tây Sa Trung     Quốc. Trung Quốc ngoài việc trị tội  chính quyền Nam Việt trong cuộc     phản kích Tây Sa và tiến hành đánh  trả tự vệ Việt Nam trên đất liền     ra đã không kịp thời tiến hành kiềm  chế ngăn chặn hành vi ngang     nhiên xâm lược của Việt Nam tại Biển  Đông, để đến nỗi hôm nay ôm lấy     di chứng. Một là khêu gợi rồi lôi  kéo các quốc gia khác tiến hành     "tranh cướp" đảo bãi Nam Sa của  Trung Quốc; hai là bây giờ Việt Nam     dẫn Mỹ tới, đồng thời lôi kéo  các nước nhỏ khác với toan tính đe doạ     Trung Quốc, quốc tế hoá những  tranh chấp song phưong của Trung Quốc.
Trung  Quốc tập trung tinh lực phát     triển kinh tế, cấp bách mong mỏi  xung  quanh hài hoà ổn định,     không mong muốn quốc tế hoá Biển Đông, không  muốn vì điều này mà     mang lại hy sinh quốc gia cực lớn và tai hoạ  quốc tế, đã thể hiện     lòng chân thành trên thế giới không hề có. Quốc  tế hoá vấn đề Biển     Đông đã rất rõ ràng, nhưng vẫn còn chưa thành  hình. Bây giờ đang là     lúc Trung Quốc phải bình tĩnh phân tích, nắm  chắc cơ hội, nhanh     chóng sử dụng thời cơ tốt hành động quả đoán.
Hiện  nay các nước ở Biển Đông đều     đang tiến hành chạy đua vũ trang mua  thêm binh khí hải quân, không     quân hạng nặng tầm xa, ngay Singapor  không liên quan gì tới Biển     Đông cũng chuẩn bị mua máy bay chiến đấu  tàng hình mũi nhọn; kế     hoạch vũ trang của Australia và Ấn Độ v.v..  đều là để chuẩn bị cho     chiến tranh cấp thế giới. Nhật Bản càng không  chịu ngồi yên. Nước Mỹ     một mặt ra sức bán vũ khí, một mặt lửa cháy  đổ thêm dầu đồng thời     chuẩn bị dính líu về quân sự.
Có   nước nhỏ cá biệt thấy Mỹ     tuyên bố "trở lại châu Á" cho rằng đã có  chỗ dựa, ra sức kêu gào, có     nước động dao động súng, tiến hành hăm  doạ vũ lực. Điều này rất có     mùi vị khôi hài. Thế năng chiến tranh  tại Biển Đông đang được tích     luỹ. Thời gian không ở phía Trung Quốc,  Trung Quốc nên giữ tư thế     người chủ đạo trong hợp tác và phát triển  khu vực và dùng điều kiện     càng ưu đãi hơn cạnh tranh với các công  ty dầu mỏ phương tây, tham     gia khai thác dầu khí, đồng thời tiến  hành khuyên can ngăn chặn tiên     lễ hậu binh đối với những hành động  lấy dầu xâm phạm vùng biển của     ta. Đừng lo lắng cho những cuộc chiến  tranh qui mô nhỏ, bởi vì đó là     phưong thức tốt nhất để làm thế năng  chiến tranh xì bớt. Đánh mấy     trận nhỏ, thì trận đánh lớn có thể  tránh  được. 
Dưong Danh Dy (dịch)
theo Viet-studies
 ======================================
 http://www.seasfoundation.org/research-documents/military/1365-vit-nam-trc-hinh-thai-chin-tranh-mi     Thứ sáu, 30 Tháng 9 2011 10:52
Lê Ngọc Thống   
Bất  kỳ một quốc gia nào nếu     như muốn Tổ Quốc không bị bất ngờ thì phải  biết được nguy cơ thách     thức an ninh từ đâu đến? Lực lượng bao  nhiêu? Đến bằng cách nào?     Nhằm vào đâu? Và chuẩn bị để đón nó ra  sao. Việt Nam cũng vậy thôi.     Khi một láng giềng vốn hùng mạnh lại  tăng cường lực lượng quân sự     vượt khỏi giới hạn phòng thủ, không  minh bạch, kèm theo thái độ nước     lớn nghênh ngang, đe dọa dùng vũ  lực; hành động ngang ngược, chèn ép     bắt nạt… thì đó là vận hội hòa  bình hay là nguy cơ chiến tranh? Dù     không muốn thì Việt Nam cũng bắt  buộc phải có ứng xử và hành xử với     nguy cơ này. Bài phân tích và  nhận định của Lê Ngọc Thống –     nguyên sỹ quan Hải quân Việt Nam.
 Đối tượng và khu vực tác     chiến
   Từ xưa tới nay dân tộc Việt trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh. Lúc      thì phải thực hiện chiến tranh giải phóng Tổ quốc; lúc thì thực hiện      chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, tuy nhiên những cuộc chiến này chủ yếu      xảy ra trên Lãnh thổ. Vùng biển, vùng trời thời đó con người cả 2      phía chưa đủ khả năng để nhận thức được vị trí, lợi ích của nó nên      được bỏ qua. Ngày nay tình thế đã khác, khi mà lãnh thổ đã "rành      rành định sẵn ở sách Trời" rồi thì Vùng biển và Hải đảo con người có      đủ khả năng để làm chủ, khai thác nó thì dù có được bảo vệ bằng Công      ước LHQ về biển, Luật biển Quốc tế năm 1982 thì nó vẫn trở thành mục      tiêu quan tâm của những kẻ có dã tâm bành trướng 
  Việt Nam là một quốc gia có 3260km bờ biển với hơn 3000 hòn đảo lớn      nhỏ trong đó có 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa (bị Trung Quốc đánh      chiếm năm 1974) và Trường Sa. Theo Công ước của LHQ về biển và Luật      biển năm 1982 thì Việt Nam có chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển      với diện tích khoảng 1 triệu km2. Như vậy biển, đảo của      Việt Nam thực sự là "Trời cho" và những kẻ có dã tâm bành trướng thì      nhìn vô với ánh mắt thèm muốn, chờ cơ hội là hành động. Vấn đề đặt      ra trước tình hình hiện nay là ta phải làm gì để "giữ lấy nó" như      lời Bác Hồ dạy.
  Quả thật, "Bảo vệ vững chắc vùng biển và hải đảo thiêng liêng của Tổ      quốc" mà Quân đội nói chung và Hải quân Việt Nam nói riêng gánh vác      nghe có vẻ như là chức năng và nhiệm vụ thường xuyên muôn thuở của      mình nhưng thực tế hết sức mới mẻ. Bởi lẽ để thực hiện tốt nhiệm vụ,      nếu khi có kẻ xâm lược vùng biển và hải đảo thì quân QĐNDVN mà nòng      cốt là HQNDVN phải tiến hành chiến tranh trên biển, nghĩa là có rất      nhiều trận hải chiến  sẽ xảy ra. Mà hải chiến thì Việt Nam quá ít kinh nghiệm. Từ xưa tới      nay dù chỉ là quy mô nhỏ, lịch sử ghi nhận có 5 trận hải chiến mà      cha ông thực hiện. Trận thứ nhất ở cửa biển Vân Đồn do ông tướng      thủy quân được gọi là giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ-Trần Khánh Dư      chỉ huy. Sử sách không ghi diễn biến cụ thể, chỉ biết là đối đầu với      hơn 400 thuyền chiến của Ô Mã Nhi, "hải quân bờ" của Trần Khánh Dư      đại bại. Trước khi tự trói chịu tội ông tướng nhà Trần phát hiện lẻo      đẻo đằng sau có một đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ do không kịp      theo đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi, vậy là gom góp "tàn quân" Trần      Khánh Dư diệt gọn đoàn thuyền này. So với trận trước thì đây chỉ là      trận thắng danh dự nhưng hậu quả thì vô cùng khủng khiếp với nhà      Nguyên… Trận thứ hai là của hải quân của Chúa Nguyễn tiêu diệt 2 tàu      chiến của Hà Lan xâm phạm lãnh hải. Trận thứ 3 là Hoàng Sa 1974 và 2      trận còn lại (mang hơi hướng của chiến tranh hiện đại một chút) là      của HQNDVN gồm 3 tàu phóng lôi đánh đuổi tàu Maddox và trận ngày      19/4/1972 gồm 2 máy bay MIG21 hợp đồng tác chiến với 3 tàu phóng lôi      đánh nhau với Hạm đội 7 Hải quân Mỹ gồm 01 tuần dương hạm, 02 khu      trục hạm và 01 hộ tống hạm tại vùng biển Quảng Bình. Lần xung đột      trên biển năm 1988 không tính vì HQNDVN lúc đó chỉ có tàu vận tải,      không có tàu chiến tham gia.
  Liệt kê ra những điều này để chúng ta biết rằng hải chiến chưa phải      là sở trường của ta (và càng không phải là sở trường của Trung Quốc,      với Nhật Bản thì họ đã, đang là cường quốc biển không ai có thể phủ      nhận). Vì thế xây dựng thế trận, cách đánh, vũ khí trang bị … phải      tích hợp với nhau và theo kiểu Việt Nam để giữ biển, giữ đảo đòi hỏi      rất nhiều trí tuệ, rất nhiều công sức tiền của, tâm huyết của QĐNDVN      và dân tộc Việt Nam. 
   Tình hình hiện nay Việt Nam khẳng định chắc chắn rằng nếu như có      quốc gia nào đó xâm phạm vùng biển và hải đảo của mình thì quốc gia      đó không ai khác ngoài Trung Quốc. Và đương nhiên đối tượng tác      chiến của Việt Nam trong sự nghiệp giữ biển đảo không phải là Mỹ,      Nhật Bản hoặc Nga mà phải là Trung Quốc. 
  Vậy giả sử  khi Trung Quốc không còn đe dọa sử dụng vũ     lực như đã từng đe dọa  nhiều lần nữa mà dùng vũ lực thật thì mục     tiêu họ cần đạt được là  gì, không gian, khu vực tác chiến xảy ra ở     đâu? Chẳng quá khó khi  trả lời câu hỏi này. Rõ ràng đó là các sân     bay bến cảng trên bờ;  quần đảo Trường Sa và khu vực dầu khí. Nhưng     lực lượng nào sẽ tham  gia? Trung Quốc sẽ bung toàn lực hay chỉ sử     dụng một hạm đội nào đó  có tăng cường để gây chiến với Việt Nam? 
  Lật lại trang chiến tranh Việt Nam – Mỹ. Việt Nam thắng nhưng trên      phương diện là làm cho Mỹ không leo thang chiến tranh; làm cho Mỹ      phải rút quân về nước; làm cho chế độ mà Mỹ dựng lên sụp đổ để Việt      Nam thống nhất. Thời điểm đó Mỹ có khả năng thực hiện một lúc 2 cuộc      chiến tranh rưỡi và còn cả khối NATO nhưng Mỹ không thể  tập trung toàn bộ lực lượng dù chỉ 1/4 sức mạnh bởi lợi ích ở Việt      Nam của Mỹ không là gì so với lợi ích toàn cầu của Mỹ. Mỹ thất bại      tại Việt Nam là sự thật, là do không hiểu Việt Nam nhưng cho rằng Mỹ      yếu kém, hèn nhát, nhu nhược, thì chẳng khác nào "nghé không sợ      cọp". (Giá như hồi đó Việt Nam đối xử với Mỹ như Lê Lợi-Nguyễn Trãi      đối xử với nhà Minh; như Nguyễn Huệ đối xử với nhà Thanh thì lịch sử      ít nhất cũng không lùi lại 20 năm. Nhưng lịch sử thì không có "giá      như", đúng không?) 
 Trung Quốc thì khác Mỹ. Nếu như Mỹ  không thể thì Trung Quốc là không dám  đem     hết toàn bộ lực lượng để "dạy cho Việt Nam một bài học" như họ  từng     nói. Bởi thứ nhất là: Ngay như Việt Nam năm 1975 mặc dù phải  tung     hết lực lượng vào miền Nam nhưng Tướng Giáp vẫn kiên quyết để  lại Sư     308 – sư đoàn thiện chiến nhất của Việt Nam lúc bấy giờ làm  nhiệm vụ     "Cận vệ". Dù đã có đủ cơ sở để khẳng định "có cho kẹo Mỹ  cũng không     can thiệp trở lại Viêt Nam" nhưng Tướng Giáp và Bộ Chính  trị Đảng     CSVN vẫn dự kiến tình huống xấu nhất xảy ra cho miền Bắc  trước một     thế lực khác ngay khi chưa lộ mặt. Huống chi ngày nay  Trung Quốc     không có bạn, thời gian gần đây lại đi gây thù chuốc oán  thêm nên     xung quanh chỉ có cựu thù, họ nhìn Trung Quốc với con mắt  cảnh giác,     họ tăng cường tiềm lực quân sự để sẵn sàng đối phó với  Trung Quốc mà     Trung Quốc lại đi "dốc hết túi cho một kênh bạc chưa  đâu vào đâu"     thì quả là mạo hiểm về chiến lược và ngu xuẩn về chiến  thuật. Điều     thứ hai là tình hình chính trị xã hội Trung Quốc rất bất  ổn. Có lẽ     đây là điều nguy hiểm nhất. Bởi không phải ai trong giới  cầm quyền     Bắc Kinh cũng muốn đánh Việt Nam và nếu dùng hết toàn bộ  lực lượng     hiện có tấn công (với giả thiết các nước láng giềng xung  quanh là bạn     và không có nguy cơ nào thách thức đến an ninh quốc gia  từ bên     ngoài) thì kết quả bắt buộc phải thắng nhưng thắng nhanh.      Không thắng coi như tự sát, nhưng thắng không nhanh cũng gây nên      thảm họa trong nước (nội bộ thì đấu đá hạ bệ nhau, bạo loạn, ly      khai…) cũng coi như tự sát (hình như cư dân mạng của Trung Quốc cũng      sợ chuyện này nên mới vạch ra kế hoạch nổi tiếng táo bạo 31 ngày thì      phải). 
  Giá như giới quân sự Trung Quốc trả lời chắc chắn được câu hỏi có      "thắng nhanh" hay không? Nhưng rất tiếc, câu trả lời là của phía      Việt Nam. 
  Vậy là đã rõ, lực lượng mà HQNDVN phải đối mặt nếu như không nhầm      thì là Hạm đội Nam Hải được tăng cường lực lượng không quân và tên      lửa đạn đạo. Có thể nói lực lượng, trang bị vũ khí của Hạm đội này      cũng áp đảo, vượt trội so với Hải quân Việt Nam chứ không phải là      chuyện đùa. Đây là Hạm đội chủ lực mạnh nhất, hiện đại nhất của      Trung Quốc và duy nhất trong 3 hạm đội của Trung Quốc được biên chế     2  lữ đoàn lính thủy đánh bộ. Điều này cũng chứng tỏ nhiệm vụ và đối      tượng tác chiến của Hạm đội Nam Hải là ai rồi.
  Một trang sử mới với một hình thái chiến tranh mới – chiến tranh      trên biển trong sự nghiệp giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc của chúng ta bắt      đầu. 
  Nếu Mỹ tấn công Việt Nam với mục đích đạt được như Trung Quốc, theo      kịch bản mà Mỹ từng sử dụng ở Irắc, Coxovo, Apganixtan thì Mỹ sẽ sử      dụng đòn tấn công tên lửa, pháo hạm từ tàu ngầm, tàu nổi, cùng với      máy bay cường kích tên lửa chiếm lĩnh bầu trời đồng loạt vào các vị      trí sân bay, bến cảng, các trạm radar của Việt Nam. Mỹ có thể làm      chủ cuộc tấn công nếu như Mỹ với hàng trăm máy bay trên tàu sân bay      làm chủ được vùng trời. Đây cũng là ưu thế quyết định nhất của các      trận hải chiến. Bởi vì lực lượng không quân hải quân là lực lượng      nguy hiểm nhất để áp chế, khống chế hoặc tiêu diệt nhanh nhất lực      lượng tàu nổi, lực lượng tên lửa bờ, sân bay, bến cảng. Và tất nhiên      kết quả phụ thuộc lớn về việc không quân hải quân Việt Nam có giằng      co được với đối phương trên vùng trời của vùng biển xảy ra tác chiến      hay không. Nếu giằng co được thì có cơ hội phản công, nếu không thì      chấp nhận trở về thời kỳ trước năm1975 thực hiện chiến tranh du      kích.
 Nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam cũng có kịch bản tương tự Mỹ thôi     nhưng ưu thế quyết định nhất của các trận hải chiến  thì Việt     Nam nắm giữ bởi lẽ không quân hải quân Trung Quốc chưa đủ  cơ để vươn     ra đến khu vực xảy ra tác chiến. Trung Quốc lại không có  khả năng     tấn công từ xa ngoài "tầm với" của đối phương như Mỹ, vì  thế bắt     buộc họ phải tiếp cận gần hơn, mà gần hơn thì nằm trong tầm  hỏa lực     của các lực lượng phòng thủ biển Việt Nam. Vì vậy dù lực  lượng tàu     ngầm, tàu nổi, tên lửa hiện đại của Trung Quốc không kém  Mỹ là bao     nhưng do không khống chế làm chủ vùng trời nên tạo điều  kiện cho tàu     ngầm, tàu mặt nước, không quân hải quân Việt Nam "nhở  nhơ" tha hồ     lựa chọn phương án đáp trả. (Có lẽ bây giờ ta mới hiểu  vì sao Trung     Quốc lại có mơ ước khát khao cháy bỏng là làm sao để có  tàu sân bay     đến thế. Họ đã có nó, tuy nhiên chờ đến lúc được như Mỹ  bây giờ là     một khoảng thời gian dài).
  Lối đánh và NMD Made in     Vietnam 
  Ngày nay, hoạt động tác chiến để giữ biển đảo của Viêt Nam hiện nay      xảy ra trong một không gian rộng và sâu bao gồm trên không, trên      biển, trong lòng biển và dưới đáy biển. Tương ứng với nó là các lực      lượng không quân hải quân; tàu mặt nước; tàu ngầm; thủy lôi, mìn và      lực lượng phòng thủ bờ biển. 
  Hải chiến ngày xưa thì các lực lượng này của hai bên thường tìm cách      tiếp cận nhau, gặp nhau là bắn nhau như vãi đạn. Hải chiến hiện đại      ngày nay thì khác, các lực lượng này hiếm khi đối mặt nhau mà chỉ      tiêu diệt nhau khi khoảng cách còn rất xa. Vì thế kẻ nào nhìn     xa hơn, vũ khí có tầm bắn xa hơn, độ chính xác cao hơn là kẻ đó  thường  chiếm ưu thế (nói là thường vì trong trận hải chiến     tháng 10/1973  giữa hải quân Israel với Ai cập và sau đó là Syria thì     tàu tên lửa  của hải quân Ai Cập và Syria tầm bắn lớn hơn tàu tên lửa     của Israel  gấp 2,5 lần. Nhưng do chiến thuật và gây nhiễu tốt nên     khi tàu tên  lửa của Ai Cập và Syria tấn công ngoài tầm hỏa lực của     tàu tên lửa  Israel mà không trúng mục tiêu thì lập tức tàu tên lửa     Israel vận  động tiếp cận đến đúng tầm hỏa lực của mình phóng tên lửa     diệt gọn)  Tuy nhiên có một điều cần hiểu là khoảng cách còn rất     xa đó  là xa bao nhiêu? Đây là vấn đề tuyệt mật quân sự. Bạn có     thể biết  tàu này, máy bay kia trang bị vũ khí này nọ nhưng bạn không     thể biết  tầm bắn có hiệu quả của nó là bao nhiêu km ngoài người làm chủ phương tiện đó ra. Vì      thế hải chiến, không chiến hiện đại vẫn phải có các hành động đợi      cơ, phục kích, hoặc vận động tiếp cận mục tiêu làm sao có lợi nhất      để phát huy hỏa lực của mình. Như vậy không có nghĩa những tàu      chiến hiện đại nhất được trang bị hỏa lực phòng, chống đầy mình là      miễn bị tiêu diệt, tấn công.  
    Từ kinh nghiệm chiến tranh với Mỹ, như trong trận hải chiến ngày      19/4/1972 Lực lượng Hạm đội 7 Mỹ mạnh như vậy, bầu trời, vùng biển      Việt Nam bị khống chế, phong tỏa như thế mà hải quân và không quân      Viêt Nam vẫn hợp đồng tập kích làm cho 4 tàu chiến hiện đại bậc nhất      lúc bấy giờ bị bất ngờ, rối loạn, lúng túng đối phó và bị dính đòn      đau. Vì thế, để chống lại một lực lượng hải quân mạnh, hiện đại tầm      cỡ như Trung Quốc, Mỹ thì nguyên tắc sống còn trong tấn công đối      phương là cơ động nhanh, bí mật, tập kích bất ngờ với các đòn dồn      dập, nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều phương tiện hỏa lực vào một mục      tiêu làm cho đối phương lùng túng, rối loạn dễ bị tiêu diệt hoặc bị      thiệt hại nặng nề. Tình thế hôm nay Việt Nam càng thuận lợi, dễ dàng      hơn rất nhiều lần so với thời đánh Mỹ, do đó nguyên tắc sống còn      trong tấn công trên biển này càng phát huy uy lực. Các tàu, xuồng      phóng lôi, tên lửa loại nhỏ tốc độ cao Việt Nam đang đóng hàng loạt      có thể đợi cơ phục kích ở bất cứ nơi đâu trên cửa sông, luồng lệch      và gần 3000 hòn đảo lớn nhỏ của bờ biển Việt Nam được sự hỗ trợ của      không quân, lực lượng trên đất liền tùy theo tình hình tác chiến sẽ      là một mối nguy hiểm cực lớn, tiềm tàng rất khó đối phó. Bất kỳ lực      lượng tuần dương hạm, khu trục hạm nào dù hiện đại đến đâu mà "mon      men" vào vùng biển và hải đảo của Việt Nam thì ngoài việc phải tập      trung đối phó tương xứng với các máy bay, tàu chiến hiện đại của      Việt Nam còn bị nguy cơ tiêu diệt rất cao bởi những con tàu "đặc      nhiệm" này. Sự phối hợp bộ 3 giữa tàu tên lửa, phóng lôi loại nhỏ      tốc độ cao và tàu ngầm với không quân phục kích hay tập kích có vẻ      như trở thành loại hình tác chiến cơ bản, sở trường của Hải quân      nhân dân Việt Nam.
  Hải chiến hiện đại với vũ khí công nghệ cao thì ngư lôi, tên lửa là      hỏa lực chủ yếu mà bên này dùng để tiêu diệt bên kia và ngược lại,      trong đó tên lửa là hỏa lực chính. Đến đây một bài toán hóc búa đặt      ra là làm thế nào để cho tên lửa, ngư lôi của ta phóng ra là trúng      đích và làm gì để vô hiệu hóa hoặc ít ra là hạn chế tên lửa, mgư lôi      của đối phương?
  Việt Nam nghèo không có cơ sở vật chất kỹ thuật để bố trí hệ thống      phòng thủ tên lửa như Mỹ, điều đó không có nghĩa là chỉ biết trương      mắt nhìn tên lửa bay vào lãnh thổ mà chịu. Để đánh chặn các đòn tấn      công bằng tên lửa hành trình, đạn đạo, máy bay tàng hình tầm thấp      của đối phương, Việt Nam phải xây dựng, bố trí các tổ hợp phòng      không nhiều tầng nhiều lớp nghĩa là các vùng lưới lửa như thời chống      Mỹ với các cỡ nòng từ 12ly7 trở lên ở những hướng mà tên lửa, máy      bay có thể xuất hiện. Các vị trí quan sát bằng kỹ thuật ở bờ biển,      hải đảo sẽ thông báo cho tổ hợp phòng không biết tên lửa bay theo      hướng nào, độ cao bao nhiêu, thời gian bao lâu để đồng loạt khai      hỏa. Máy bay tuy tốc độ thấp nhưng đường bay không cố định; tên lửa      có tốc độ cao thì đường bay lại cố định. Thuận lợi và khó khăn khi      đánh chặn 2 loại này như nhau nhưng cũng lưới lửa này Việt Nam đã      từng tiêu diệt máy bay F111 cánh cụp cánh xòe tốc độ siêu thanh thì      ngày nay mọi điều đều có thể. Ngoài ra Việt Nam cũng phải học cách      rải nhiễu, gây nhiễu của B52 Mỹ trong chiến dịch Linebacker; tạo ra      các khu vực nhiễu loạn điện từ để tên lửa bay qua vùng đó thì mất      điều khiển tự nổ hoặc ít nhất cũng phải hạn chế tối đa độ chính xác      của tên lửa đến mục tiêu…
  Như vậy, căn cứ vào nội lực và động thái chuẩn bị của Việt Nam thì      bất kỳ một quốc gia nào trừ Mỹ mở một cuộc chiến tranh trên biển với      Việt Nam, chẳng hạn Trung Quốc đang coi Trường Sa của Việt Nam và      80% diện tích biển Đông là lợi ích cốt lõi thì điều đó (gây chiến      tranh) có thể xảy ra thì nên bây giờ hoặc không bao giờ. Nhưng với      nhãn quan của mình tôi cho rằng điều đó đã qua và ngay bây giờ cũng      là quá khó. Không những Việt Nam đã mạnh lên rất nhiều mà tình hình      khu vực đã thay đổi chóng mặt không có lợi cho Trung Quốc tý nào.      Trung Quốc đã như hay bị coi như Liên Xô trước kia? Liệu một cuộc      chiến tranh lạnh có xảy ra nữa không? Phản ứng của Trung Quốc nói      lên điều gì? Chúng ta chờ xem.
Lê Ngọc Thống
 
==============================================
    Chủ nhật, 25 Tháng 9 2011 12:29
Lê Vĩnh Trương (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông)
1-    Dẫn nhập
Biển và đại dương ngày càng quan trọng hơn trong đời sống nhân loại  vì nhiều lý do ngoài không gian sinh tồn, nguồn nguyên nhiên liệu và cơ  hội thông thương. Quốc gia nào nắm sức mạnh trên biển sẽ có cơ may hạn  chế nguy cơ chiến tranh trên bộ cho mình. Các cuộc đối đầu thay bậc đổi  ngôi trong suốt chiều dài lịch sử cận đại đã đầy dẫy những trận đánh  trên bộ long trời lở đất, tuy nhiên, hầu hết đều đã được quyết định bằng  sức mạnh hải quân[1].  Nhiều cuộc chiến chống xâm lược của Việt Nam từ thời Ngô Quyền đến thời  nhà Trần, Lê, Nguyễn và cả các cuộc chiến về sau của Việt Nam đều bắt  đầu và kết thúc phần lớn với vai trò của hải chiến và hải quân. Các chiến lược gia có tầm nhìn thế giới như Sa Hoàng Peter Đại Đế,  Thống Chế Sergey Georgiyevich Gorshkov( Liên Xô), Alfred Thayer Mahan  (Mỹ), Minh Trị Thiên Hoàng (Nhật) đều dành nhiều tâm huyết cho sức mạnh  trên biển. Thủ Tướng Ấn Độ Nehru  cũng đã xác định"Để được an ninh trên  lục địa, chúng ta phải thống lãnh biển khơi"[2] 2-    Cường quốc biển và cường quốc hải dương
Giới quan sát hải dương thường dùng cả hai thuật ngữ sea power (cường  quốc biển) và maritime power (cường quốc hải dương) để chỉ quốc gia có  sức mạnh trên biển. Tuy nhiên cường quốc biển thường được hiểu là nước  có sức mạnh hải quân mà thôi. Tuy vậy đôi lúc hai thuật ngữ này cũng  được dùng tương đương nhau. Theo Mahan, chiến lược gia hải dương của Mỹ,  cường quốc biển (sea power) là nhằm mô tả một quốc gia "có năng lực nhà  nước nhằm sử dụng biển khơi. Điều này tùy thuộc vào số lượng tàu hải  quân, đội thương thuyền, đội tàu ngư nghiệp và khám phá hải dương, hệ  thống tiện ích cảng, công nghệ đóng tàu, hệ thống tài chính và bảo hiểm  hàng hải."
Theo Mahan, để nắm ưu thế trên biển thì một cường quốc hải dương sẽ  phải bảo đảm ba yếu tố hải quân mạnh, thương mại phát triển và hệ thống  các căn cứ. Tuy nhiên triết lý để thống trị biển của Mahan về sau phát  triển thành các nhân tố: 1) vị trí địa lý, 2)thực lực vật chất,3)độ kéo  dài của lãnh thổ,4) dân số (độ lớn và đặc tính dân chúng, tinh thần  hướng biển và khả năng hấp thu khoa học kỹ thuật biển), 5)đặc điểm dân  tộc và 6) đặc điểm chính quyền. [3] 
Tác giả Vijaya Sakhuja phát triển đẳng thức Ray S.Live[4]
Pp= (C+E+M)(S+W)
lên một mức khác gắn liền với sức mạnh hải dương là
Pmp=(G+E+M+T)(S+W) với các thành phần như sau
Pmp= perceived maritime power (sức mạnh hải dương)
C= Critical Mass=Population+Territory (Số đông quyết định= Dân Số+ Lãnh Thổ)
E= Economic capability (năng lực kinh tế)
M=Military capability (sức mạnh quân sự)
S= Strategic purpose (mục tiêu chiến lược)
W= Will to pursue national strategy (ý chí mưu cầu chiến lược quốc gia)
P= Power =S+W (sức mạnh =mục tiêu chiến lược +ý chí mưu cầu)
Và G= Geographical factors (Địa thế)
Sức mạnh của một cường quốc hải dương sẽ là một sức mạnh tổng hợp của  đòan kết nhân dân, của nền kinh tế, sức mạnh võ trang, của mục tiêu  chiến lược và ý chí thực hiện các mục tiêu ấy.
Các tác giả còn có những phân tích đối với các nước không phải là các  cường quốc biển nhưng hưởng lợi tối đa từ kinh tế biển và không tập  trung phát triển năng lực hải quân. Có những quốc gia bậc trung (medium  power) kết liên minh với các cường quốc hải dương để tận thu các nguồn  lợi hải dương, tìm kiếm lợi cho nền kinh tế đất nước.
3-    Tầm quan trọng của SLOC và các hiểm lộ trên biển (chokepoints)
Các tuyến thông thương biển (Sea-lines of communication SLOC)  là những con đường hàng hải chính yếu nối các cảng thương mại, cảng  tiếp vận và quân cảng. Các con đường này dễ bị phong tỏa vào thời chiến.
Trong cách mạng Mỹ và trong các cuộc chiến Napoleon, hầu hết các SLOC  nằm trong tay Hải quân Anh và khi lực lượng này mất kiểm soát các SLOC,  họ bị thất thủ Yorktown và sau đó quân đoàn lớn nhất bị đánh tan và rồi  thua trận. Trong thời kỳ Napoleon, người Anh phong tỏa các quốc gia  liên hệ với Napoleon, làm gia tăng khó khăn đời sống dân Pháp khiến họ  mất hết niềm tin vào hoàng đế Pháp.
Vào Thế chiến 1 và 2, hải quân Đức cố gắng kiểm soát các SLOC từ Bắc  Mỹ đến và đi Anh quốc bằng tàu ngầm khiến quân Đồng minh phải mang hộ  tống hạm và các đoàn convoy ra mở lối khai thông SLOC. Trong Thế chiến  thứ 2, Hải quân Mỹ đã phong tỏa thành công các SLOC đến Nhật và bóp  nghẹt đường sống của đảo quốc nghèo tài nguyên này.
Trong Chiến tranh Lạnh, châu Âu đã phải nhờ cậy nhiều đến Bắc Mỹ do  Liên Xô sử dụng chiến thuật đóng chặt các SLOC đến châu Âu để phát huy  thế mạnh số đông của họ tại khu vực này.
Hình 1: Các SLOC châu Á Thái Bình Dương
Các hiểm lộ biển (chokepoints)[5] Trên thế giới có khoảng 200 eo biển (vùng nước hẹp nối hai vùng nước  rộng) hoặc kênh đào, tuy nhiên chỉ có một số ít trong đó có thể được xem  như hiểm lộ. Một hiểm lộ là một eo hay kênh có vị trí chiến lược và có  thể đóng kín để ngăn cản giao thông thủy cho tàu dầu, tàu buôn, tàu  khách hay tàu chiến. Những cuộc phong tỏa này sẽ gây ra khủng hoảng tầm  thế giới.[6]
 Những eo như eo Gibraltar đã được UNCLOS 1982 bảo vệ để bảo đảm cho  tàu bè và phi cơ được tự do thông thương cho tất cả cộng đồng thế giới.
Eo Gibralta
 Hình   2. Eo Gibralta  
 
Nằm   giữa Địa Trung Hải và Đại Tây Dương, với một bên gắn với đất  liền là thuộc   địa Gibraltar của Anh và Tây Ban Nha ở bờ Bắc còn ở bờ  Nam là Morocco. Phi cơ   quân dụng của Mỹ đã phải bay ngang qua nút cổ  chai này (với quyền bay do   UNCLOS 1982 quy định) để tấn công Libya vào  1986 vì Pháp không cho Mỹ sử dụng   không phận.
 Nhiều   lần trong lịch sử nhân loại, eo Gibraltar đã bị nghẹt, không  thông thương   được vì những hoạt động địa chất đến mức nước không thông  từ Đại Tây Dương qua   khiến cho Địa Trung Hải phải cạn nước. Nhiều  tầng muối dưới đáy biển đã chứng   minh hiện tượng này đã xảy ra vào  nhiều thế kỷ trước. 
 
 Kênh đào Panama  |  
 
Hình 3. Kênh đào Panama
 Kênh đào Panama được hoàn thành năm 1914, dài 50 dặm Anh, nối liền  Đại Tây Dương với Thái   Bình Dương và tiết giảm 8000 hải lý cho tàu  thuyền đi từ bờ Đông sang Tây Hoa   Kỳ. Có khoảng 12 nghìn con tàu băng  ngang qua kênh này hàng năm. Hiện nay,   kênh thuộc quyền quản hạt của  Cộng hòa Panama.  |  
 
Eo Magellan
Hình   4. Eo Magellan
 Trước khi kênh Panama   hoàn thành, tàu thuyền đến và đi hai bờ Đông  Tây châu Mỹ phải đi vòng xuống   cực nam châu Mỹ. Nhiều nhà hàng hải đã  phải bỏ thuyền chạy lấy người khi   ngang qua các dòng nước hiểm trở len  lỏi giữa các doi đất liền của Chile và   Argentina. 
 
 Eo Malacca  |  
 
Hình   5. Eo Malacca
 Eo Malacca nằm trong Ấn Độ Dương, hải lộ quan trọng này là con đường  tắt   cho các tàu dầu từ Trung Đông đến các quốc gia khát dầu ở vòng  cung Thái Bình   Dương (đặc biệt là Nhật), băng qua eo biển hẹp mà hai  bên là Indonesia và   Malaysia. Tổng cộng có gần 60 nghìn[7]  tàu thông thương qua đây hàng năm. Tại đây   có thông tin cho rằng Hải  Quân Việt Nam đã có một căn cứ tàu ngầm khiến Trung   Quốc bày tỏ quan  ngại. [8]  Nếu eo này chẳng may đóng cửa thì gần 50% tàu   thuyền thế giới sẽ phải  đi vòng Indonesia xuống eo Lombok, giữa Bali và   Lombok hoặc eo Sunda,  giữa Java và Sumatra.
 
 Eo Bosphorus và   Dardanelles  |  
 
 Hình 6. Eo Bosphorus và   Dardanelles  
 
Con đường yết hầu trên biển này  nối liền Hắc Hải có các cảng của  Ukraina và   Địa Trung Hải do Thổ Nhĩ Kỳ nắm giữ. Hơn 50 ngàn tàu thuyền  trong đó có 5 ngàn rưỡi tàu dầu đi ngang qua eo này   hàng năm. 
 
  |  
 
 Kênh Suez Hình 7. Kênh Suez Dài 103 dặm Anh, nằm toàn bộ trong đất Ai Cập và là con   đường nối  biển duy nhất giữa Hồng Hải và Địa Trung Hải. Đi cùng các căng   thẳng  Trung Cận Đông, con kênh này là miếng mồi cho nhiều nước dòm ngó kể từ    khi hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1869 bởi nhà ngoại giao Pháp  Ferdinand   de Lesseps. Anh quốc làm chủ kênh này từ năm 1882 đến 1922.  Ai Cập quốc hữu   hóa vào năm 1956. Trong cuộc chiến Sáu Ngày 1967,  Israel chiếm giữ kênh này nhưng   sau đó đã lui binh để thương lượng hòa  bình. 
 
  |  
 
 Eo Hormuz Hình 8. Eo Hormuz  
 
Địa danh   cổ họng này đã trở nên quen thuộc trong cuộc chiến Vùng  Vịnh 1991. Eo Hormuz là   một điểm xung yếu trên con đường SLOC vận  chuyển dầu lửa huyết mạch ra khỏi   vịnh Ba Tư. Eo biển này hiện được  Hoa Kỳ và đồng minh kiểm soát. Eo biển này   nối Vịnh Ba Tư và Biển Ả  Rập và được bao quanh bởi Iran, Oman và Các Tiểu   Vương Quốc Ả Rập. Eo  này là hiểm lộ quan trọng nhất của thế giới vì mỗi ngày   có 15,5 triệu  thùng dầu đi qua vào 2009 còn đỉnh điểm là năm 2008 với 17   triệu thùng  dầu đi qua, chiếm khoảng 33% dầu đi biển và 17% dầu được mua bán   toàn  thế giới.
  |  
 
 Eo biển Bab el Mandeb Hình 9. Eo biển Bab el Mandeb  
 
Tiếng Ả Rập có nghĩa là Cổng nước mắt. Eo biển này kết nối   Hồng Hải  và Ấn Độ Dương, eo Bab el Mandeb một hoa dung đạo cho vận tải hàng    hải giữa Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương được bao quanh bởi Yemen,  Djibouti, và   đất nước non trẻ Eritrea.
  |  
 
Tại Đông Nam Á, nếu kênh đào Kra được cho phép sử dụng như một lựa  chọn thay thế cho eo Malacca, các khả năng ảnh hưởng đến kinh tế, môi  trường cũng cần được xem xét để tận dụng cao nhất lợi ích cho hòa bình  và phát triển khu vực.
Nói về các hiểm lộ trong lịch sử Việt Nam, người Việt đã từng xử lý  các trận chiến lớn bằng quân bộ như tại nút thắt cổ chai Chi Lăng năm  1427, hoặc bằng thủy hải quân tại yếu huyệt Bạch Đằng (938,981 và 1288),  Xoài Mút (1785), hoặc bằng thủy bộ kết hợp trong chiến thắng phòng  tuyến Như Nguyệt (1077)- điểm then chốt chặn mọi nẻo tiến quân vào Thăng  Long. Đáng lưu ý là hải quân Trung Quốc với thuyền lớn đều đi từ của  biển vào, còn quân Đại Việt những lần trên đều dựa vào thế trận nửa nước  nửa bờ.
Cũng tại một chokepoint khác của biển Việt Nam, quân Nguyễn Ánh và  Tây Sơn đã có một trận thư hùng quyết định chiến trường vào năm 1801 tại  cửa Thị Nại mà người đời sau gọi đó là Xích Bích của Việt Nam.[9] Hiểm lộ Thị Nại cũng là nơi vua Trần Duệ Tông tử trận trong trận phạt Chiêm năm 1377. Hình 10. Hiểm lộ chiến tranh đường thủy Xoài Mút
4-    Biển Việt Nam- vùng biển vì hòa bình
Biển Việt Nam, tức biển Đông Nam Á bao bọc đất nước Việt Nam và gắn  liền với dân tộc từ khi lập nước ngay cả trong tên gọi đất "nước". Để là  một cường quốc hải dương và thực hiện thành công mục tiêu 2020, 55% GDP  là từ biển, người Việt sẽ phải thực hiện nhiều việc hơn đẳng thức của  Vijay, nhiều việc hơn bộ ba hay bộ sáu của Mahan. Quan hệ hữu hảo của  hải quân và nhân dân các nước Ấn, Nhật, Nga, Mỹ với Việt Nam trong thời  gian gần đây là những võ khí bảo vệ SLOC, khai thông hiểm lộ và chính là  đóng góp to lớn của Việt Nam vào tự do giao thông hàng hải và hòa bình  khu vực. Bảo vệ biển Đông sóng êm gió lặng và chuẩn bị tinh thần tận  dụng những cuộc va chạm không mong muốn trên biển trên bộ để trở thành  một cường quốc biển tương lai là điều mong muốn của người Việt Nam.
Xét khía cạnh quân sự, các trận hải chiến của Việt Nam thường diễn ra  tại cửa sông thông ra biển, với sự kết hợp của lục quân và hải quân.  Hải quân Việt Nam hiện nay đang xây dựng một hạm đội tàu ngầm để bảo vệ  vùng biển Việt Nam[10] cũng trên tinh thần lấy đất liền làm điểm tựa. Tác giả Lê Ngọc Thống đã so sánh các tàu ngầm của Việt Nam như những con "hổ  Việt Nam chỉ rình mồi ở những vị trí mà con mồi hay đi qua và bắt buộc  phải đi qua. Và khi con mồi đã trong "tầm vồ" thì ... mới gọi là Chúa  sơn lâm."[11]Tuy  nhiên, quyết định các cuộc chiến lớn là ở chiến tranh trên biển chứ  không phải trên bộ, song quyết định các trận hải chiến không do tàu ngầm  mà là tàu trên mặt nước và chiến đấu cơ[12]. Những đúc kết của thế giới về SLOC và hiểm lộ cho thấy có nhiều cách  thức để cân bằng lực lượng trên biển nhằm vãn hồi, duy trì hòa bình và  phát triển giàu mạnh chứ không phải dựa vào số đông quân lực, số nhiều  trang thiết bị, độ dài của hàng không mẫu hạm, độ to của dàn khoan. Trớ  trêu của lịch sử là  những khẩu đại bác khổng lồ không cứu vãn thế trận  của phát xít Đức[13]. Việt Nam có một SLOC đi ngang và có nhiều hiểm lộ để vươn tầm ngoài  Malacca vì độ quan trọng của SLOC sẽ quyết định số lượng của các điểm  trọng yếu khác, ngoài hiểm lộ.
Tiến hành xây dựng hơn 3000km bờ biển cùng tất cả các đảo trong quyền  kiểm soát trở thành những địa điểm văn hóa, du lịch, trung tâm ngư  nghiệp có giá trị kinh tế biển cao đồng thời với bảo đảm khả năng phòng  thủ là nâng cao sức mạnh Việt Nam. Sức mạnh mềm của một "eo Việt Nam"  tương lai[14]  sẽ là một phần quan trọng trong sức mạnh tổng hợp của đất nước. Trong  nỗ lực vì hòa bình như tên gọi của đại dương này, những thông tin về  SLOC và các hiểm lộ có lẽ cũng cần thiết cho ngư dân, cho giới kinh  doanh và những ai quan tâm đến công cuộc bảo vệ biển đảo Tổ quốc.
 
[1] Jurgen Schwarz, Wilfried A. Herrmann, Hank Frank Seller- Maritime Strategy in Asia- White Lotus- 2002, trang  19 [2] Arthur Hellman,"The Eagle and the Elephant", Wall street Journal, 7 March 2006 [3] Vijay Sakhuja- Institute of South East Asian Studies- Asian Maritime Power in the 21 st Century- 2011, trang 21,24 [4] Jurgen Schwarz, Wilfried A. Herrmann, Hank Frank Seller- Maritime Strategy in Asia- White Lotus- 2002, trang  24 [5]Jean-Paul Rodrigue, Straits, Passages and Chokepoints [12] Jurgen Schwarz, Wilfried A. Herrmann, Hank Frank Seller- Maritime Strategy in Asia- White Lotus- 2002, trang  19 và 39 
 
No comments:
Post a Comment