Monday, October 3, 2011

[Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (9) - Gốc tích ong cha?

From: Dzung
Sent: Monday, October 3, 2011 4:53 PM
Subject: Re: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (9) - Gốc tích ong cha?

 

Dạ thưa chứng cớ đưa ra
Hãy đem thử DNA rõ ràng

0o0

Tại sao tuổi trẻ VN thà chọn zero môn sử ? Thay vì học chuyện ruồi bu, nhặng đậu

0o0

Cho đến khi có bằng chứng ngược lại, chuyện cụ Sắc đánh chết người chống thuế là thật
Và rất nhiều sác xuất là vì vậy, mà cụ Sắc phải bỏ trốn vào Nam, (sau khi đã được cụ Tạo che chở khỏi bị phạt đòn
Vì vậy, Nguyễn Tất Thành mới phải lên đường vào Nam. Mộng cng danh làm quan nối giòng hoạn lộ của cụ Tạo cũng hết.
Chỉ còn mỗi cách làm quan cho Tây, do đó Nguyễn Tất Thành tìm đường qua Pháp, để tìm gặp cụ Phan Chu Trinh xin giúp đỡ
Điều này giải thích việc Nguyễn Tất Thành đã nhờ người viết đơn xin học làm quan (công chức) cho Tây, tại Marseille

Rồi sau đó xin cho cha ...
Dưới ánh mặt trời, sự thật sẽ đến
 Nếu đảng CSVN và fan ông Hồ có bằng chứng ngược lại, internet luôn san sàng

D~

http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2009/11/08/nh%E1%BB%AFng-giai-tho%E1%BA%A1i-v%E1%BB%81-h%E1%BB%93-chi-minh/
0o0

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10781&rb=0302

23.8.2007
Trường Lam

Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1993, trong tập Trong cõi [1] xuất bản tại Hoa Kì, Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934-2005), một trong những sử gia nổi tiếng nhất tại Việt Nam, đã công bố ghi chép của mình từ "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia!", trong đó phần liên quan đến dòng dõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây nhiều dư luận. Theo đó, tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thêm một phần không được nhắc đến trong sử sách chính thống: Thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là con đẻ nhưng không được thừa nhận của ông cử Hồ Sĩ Tạo, thuộc dòng họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Nghệ An. Hồ Chủ tịch, nổi tiếng với tên gọi Nguyễn Ái Quốc trong thời kì hoạt động tại nước ngoài, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung [2] , tự là Nguyễn Tất Thành, song từ năm 1945 cho đến khi qua đời năm 1969 lại được người Việt Nam và toàn thế giới biết đến với tên là Hồ Chí Minh.

Mới đây, một nhà thơ xứ Nghệ đã nhiệt tình dẫn một cộng tác viên talawas từ Vinh về vùng sơn cước, đến xóm Nghĩa Thái, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn để tìm gặp ông Hồ Sĩ Sênh (bút hiệu Trường Lam, hội viên Hội Văn nghệ Nghệ An), một người cháu mà theo gia phả họ Hồ, gọi cụ Hồ bằng bác. Khi nghe khách bày tỏ nguyện vọng, ông đến tủ sách, lục đưa cho khách xem bản phô-tô bài bút ký viết tay của ông, nhan đề "Chuyện ở sân sau", kể về sự thật cuộc đời của ông Hồ Sĩ Tạo, ông Nguyễn Sinh Sắc và hậu duệ. Bài ký này được viết ở Trại viết văn của Hội Văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Ông Trường Lam cho biết, trong buổi tổng kết trại viết, người ta đã đánh giá rất tốt bài ký này, đã đọc bài ký cho các trại viên nghe. Nhưng là chuyện "huý kỵ", nên không có báo nào trong nước dám in. Ông Trường Lam đã đồng ý cho chúng tôi công bố nguyên văn bài ký trên talawas. Chúng tôi chân thành cảm ơn ông Trường Lam và hân hạnh giới thiệu cùng độc giả.

talawas
Mọi điều tưởng như đã vĩnh viễn chìm vào bóng đêm của quá khứ mông lung, huyền ảo, có hồn ma bóng quỷ, có những hình nhân vật vờ, thấp thoáng, bỗng rơi vào quên lãng, lặng im…

Người ta thở dài, tiếc những sự thật, hoặc giả là những lời đồn đại không thể xác minh, sẽ mãi mãi chôn vùi… Đột nhiên, một ngọn đèn le lói thắp lên, xua đi bao điều huyễn hoặc, mơ hồ.

Đầu tháng Bảy nhuận (Bính Tuất), quê tôi trời bỗng ào ạt tuôn mưa. Những tưởng mùa thu này rồi vẫn vời vợi cao xanh, nắng đẹp cứ dịu dàng trôi, ai ngờ lại có tuần mưa gió sụt sùi! Giữa ngày mưa như vậy, tôi nhận được tin: Có một vị sư đạo cao đức trọng từ miền Nam ra, đã tìm đến và thắp hương viếng mộ cụ Cố chúng tôi, một Giải nguyên xứ Nghệ. Cụ là người đầu tiên giành được thứ hạng này ở tổng Võ Liệt (Thanh Chương). Thật là may, ngôi mộ mới được xây lại cách đây chưa lâu. Ông bác của chúng tôi, nguyên Giám đốc Học viện An ninh Khu vực II, sau khi nghỉ hưu đã tìm về lo lắng, sửa sang. (Bác là Hồ Nhã Chương, khi làng quê không tồn tại [3] đã đổi tên là Hồ Thanh Chương, cháu nội cụ Hồ Sĩ Tạo, bắt đầu từ bà thứ tư ở Quảng Trạch, Quảng Bình, hiện trú tại 257A, đường Nguyễn Trãi, phường Cư Trinh, TP Hồ Chí Minh).

Vị sư đó là Thượng toạ Thích Chân Quang, sư trụ trì chùa Phật Quang, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông xưng danh là Hồ Chí Việt, chắt nội của cụ Giải nguyên, một đứa con lạc loài, nay tìm về với tổ tông. Đội mưa gió, theo sau xe Thượng toạ là bảy xe chở Phật tử, trong đó có hai xe ca… Chuyện đó thật không ngờ!

Mãi sau ít lâu tôi mới được biết Thượng toạ cũng đã về thăm nhà bia tưởng niệm Đức nguyên tổ Hồ Hưng Dật tại Quỳnh Lâm, thăm nhà thơ họ Hồ tại Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Ghi vào sổ vàng lưu niệm của dòng họ, Thượng toạ đã nói rõ mình là: "đứa con lạc loài" nay mới tìm về với gia tộc… Ngoài ra Thượng toạ còn thắp hương viếng mộ cụ Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan…

Những điều đột ngột diễn ra khiến tôi không khỏi suy nghĩ về những mối quan hệ huyết thống, dòng tộc đang bền bỉ, âm thầm bén rễ sâu trong tiềm thức con người. Và những kỷ niêm tuổi ấu thơ đã xa lắc xa lơ, đang chìm dần vào bóng tối bỗng nhiên chậm chạp hiện về, hệt như những cuốn phim quay chậm, có quãng mơ hồ, quãng lại hiện rõ như in.



*


Làng Lai Nhã quê tôi nay đã không còn tên trên bản đồ hành chính. Nó bị xoá sổ từ năm 1978 khi người ta tiến hành cuộc cách mệnh "thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn". Ngót ba mươi năm trôi qua bóng dáng làng xưa đâu có dấu ấn gì với thế hệ con cháu bây giờ! Nhưng đối với chúng tôi, những ông già cổ hủ, đêm nó vẫn hiện về trong mơ. Và riêng tôi: một làng Lai Nhã cổ truyền tươi xanh, vẫn nguyên lành bóng dáng êm đềm, hiện hữu đời đời…

Từ nửa cuối Hậu Lê, một nhánh họ Hồ Quỳnh Lưu lập làng ở vùng Cương Gián (Nghi Xuân) cảm thấy thiên nhiên quá khốc liệt, đe doạ cuộc sống, phải bỏ đất tìm nơi khác định cư. Một gia đình họ Hồ như vậy theo ông Đậu Quận Công đến vùng Lòi Nhã, xã Thất Thôn dựng nhà sửa cửa, khai phá đất đai, lập thành một trong bảy thôn của Đậu Quận Công (vùng đất ngày trước đã có người thiểu số sinh sống. Bà nội tôi gọi họ là người Mường. Những địa danh còn lại như Bến Mường, Động Mường… nói lên điều đó. Khi người Kinh tiến vào, họ lập tức rút lui đi.)

Thế hệ sau, họ có con cháu là cụ Hồ Yên Định, làm quan đến hàm tứ phẩm (không qua thi cử) mới đổi thôn thành Lai Nhã, xã Thất Thôn thành Thái Nhã. Con cháu li tổ phải lấy chữ Nhã đệm vào để luôn nhắc nhớ tới quê hương. Khi vua Quang Trung ra Bắc diệt quân Thanh, họ có cụ Hồ Hữu Tiềm đầu quân giết giặc và hi sinh tại Thăng Long (mùng 5 tháng Giêng âm lịch là ngày giỗ). Nhà thờ họ Hồ được cất lên thời đó. Khi giác móng và lấy hướng, ông thầy địa lý người Tàu phán rằng: "Thuỷ đáo từ đường. Hồ gia vi vương". Ông ta bảo đây là thế đất "Phượng Hoàng ẩm thuỷ". Thời bấy giờ sông Rộ còn ngoằn nghèo chảy bên phía núi xa, cách nhà thờ chừng non cây số. Biết khi nào nước sông chảy đến cho chim Phượng Hoàng uống?

Trước Cách mạng tháng Tám, họ Hồ Lai Nhã cũng mới chỉ vài chục gia đình nhưng đã có bốn cử nhân và khá nhiều tú tài. Có người khá nổi tiếng như cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo.

Làng Lai Nhã với con sông Rộ chảy vòng ôm lấy những vườn cây quả mướt xanh như một nét chấm phá thật thơ mộng và dịu dàng. Tôi có ông chú, con cô của bố tôi, làm chủ nhiệm Khoa Sinh vật, kiêm Bí thư Đảng uỷ Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (chú là Phạm Đức Dục, quê xã Thanh Long, Thanh Chương, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Hạp, gọi Thị lang Phạm Hoàn là bác). Chú bị bệnh tâm thần phân liệt, vợ con nhốt vào một xó… Vậy mà khi tôi tới thăm, ông vẫn còn ước ao được về làng Lai Nhã để đi câu cá. Ông kể chuyện cụ Phủ Tạo và ông ngoại là cử nhân Hồ Sĩ Hạp, nhưng lẫn lộn lung tung… (Về làng Lai Nhã, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Hữu Dụng, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Huấn cũng có ấn tượng rất đẹp.)

Làng tôi có những khu vườn um tùm, rập rạp với vòng ngoài chen đặc song mây, tre nứa và cây cọ cùng những cái tên đặc trưng như: Vườn Cụ Phủ, Cụ Huyện, Cụ Cử, ông Tú, ông đồ… đầy cây ăn quả và bốn mừa líu ríu tiếng chim. Cụ Tạo về hưu đã trồng bốn cây đa ngoài cổng đoài của làng. Có hai cây sau này thành tam quan nhờ một rễ phụ căng ngang, nom rất kỳ thú. Đây là nơi ông Tạo mắc võng nằm vào những trưa hè.

Sau này tôi mới biết, nhờ những khu vườn này mà các bậc cha chú có tiền trọ học thành tài, bởi ruộng đất ở đây rất xấu, chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lụt, có thu hoạch được là bao!

Ôi, những khu vườn trong mơ và làng xưa cũng chỉ còn lại trong mơ, nơi đã bay bỗng tuổi thơ tôi, nơi chúng tôi tha hồ quậy phá: trèo bắt tổ chim, tìm hái những chùm quả chín và cắp sách tới trường…

Khoảng mấy năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nước sông Rộ vòng về, xói lở một góc vườn nhà thờ và nhà thờ họ Hồ Lai Nhã thấp thoáng soi bóng xuống mặt nước sông trong. Chim Phượng Hoàng ơi! Hãy uống nước đi…



*


Cụ Hồ Sĩ Tạo tự Tiểu Khê, sinh năm 1834 (Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19 nói cụ Tạo sinh năm 1831. Cụ Cao Xuân Dục, học trò ông Tạo, trong sách Nghệ An khoa bảng nói ông Tạo sinh năm 1841. Chúng tôi theo người già trong họ nói ông Tạo thọ 73 tuổi và bà Hồ Thị Từ, con út ông Tạo nói bà ra đời lúc cha đã 70 tuổi, lên 3 thì cha mất…, mà suy ra), mất năm 1907, là người tài hoa nổi tiếng cả vùng. Theo gia phả nói thì cụ thuộc phe chủ chiến, chủ trương đánh Pháp tới cùng, nên bị vua Tự Đức đánh hỏng (?).

Trong cuộc đời làm quan, dạy học, giao du với bạn bè khắp vùng, ông Tạo đã có quan hệ gắn bó với năm người phụ nữ. Theo các cụ trong họ (trong đó có cụ Hồ Sĩ Huề) từng kể với cháu con thì:

Người phụ nữ thứ nhất chính là người vợ cả của cụ được gia đình cưới cho ngày còn trẻ. Bà người họ Phan ở xã Xuân Trường (Thanh Chương) và đã cho ông Tạo hai người con trai trưởng thành.

Người phụ nữ thứ hai là bà Hà Thị Hy, còn gọi là cô Đèn, quê ở làng Sài, Nam Đàn. Ông Tạo nổi tiếng khẩu khí, đam mê hát phường vải, ứng đối nhanh và giỏi. Bà Hy là người hát hay, giọng tốt và rất đỗi xinh đẹp. Tài tử gặp giai nhân cũng ví như cá gặp nước, rồng gặp mây. Khi họ quen biết nhau, tuy ông Tạo ít tuổi hơn nhưng đã có vợ và đang dạy học trong nhà họ Hà. Vì quá tài hoa nên mãi năm cô Đèn ba mươi vẫn chưa có đám nào lọt vào mắt xanh… Trai làng không với tới nên họ phong toả, hình thành thế bao vây, không cho con trai nơi khác đến. (Theo bác Hồ Thanh Chương, ông Tạo yêu cô Đèn trước khi có vợ. Bà Hy có thai, ông Tạo về xin cha mẹ được cưới, nhưng gia đình không đồng ý vì đã dạm hỏi đám khác. Cụ Hà Văn Cẩn đành ngậm ngùi gả bà Hy cho ông Nhậm, một ông già lụ khụ.)

Vậy là cái gì phải tới đã tới. Cô Đèn mang thai và ông Nguyễn Sinh Nhậm mồ côi vợ, cheo cô về làm mọn. Năm 1863, bà Hy sinh con trai. Cậu con ông Hồ Sĩ Tạo mang họ Nguyễn Sinh được ông Nhậm đặt tên là Sắc. Nguyễn Sinh Sắc lên 3 tuổi thì ông Nhậm chết. Bà Hy vốn bị người nhà họ Nguyễn Sinh coi là dân "xướng ca vô loài", nên họ buộc hai mẹ con phải ra sống trong một căn lều ngoài đồng khoai, cạnh làng. Chỉ hơn một năm sau, bà Hy cũng bỏ cậu Sắc mà ra đi. Bà chết trong khổ cực âm thầm và trong sự hắt hủi của gia đình nhà chồng! Con trai làng Sài hối hận, thương người con gái mệnh bạc, đã kéo sang làng Sen làm lễ chôn cất. Chính ông Tạo là người đọc điếu văn.

Cậu Sắc đành phải về dựa vào anh cả để khỏi chết đói. Và dần dà, lên thêm một tí cũng được anh cả cho một buổi chăn trâu, một cuổi cắp sách tới trường. Việc cậu Sắc được đi học cũng nhờ phần lớn ở thầy Tú Vương. Thầy xin anh Thuyết cho Sắc đến lớp mà không phải chịu khoản phí nào. Thầy Vương đã xem tướng tay, xem chữ viết và tấm tắc khen là con nhà nòi: "Nòi xướng ca và nòi nhả ngọc phun châu cô Đèn thầy Tạo… Con hãy cố lên, tài hoa lắm, thầy sẽ giúp…"

Rồi một hôm ông họ Hoàng bên làng Chùa sang làng Sen thăm thầy Tú Vương. Học trò được ra chơi. Đôi bạn trò chuyện với nhau rất lâu. Ngoài chuyện thơ phú, văn chương, thi cử… còn có chuyện cậu bé Sắc. Họ bàn với nhau những gì không rõ. Chỉ biết rằng ít lâu sau, ông Tú Hoàng Đường đến nhà Nguyễn Sinh Thuyết xin được nhận chăm nuôi cậu bé Sắc. Vợ chồng Thuyết mừng rơn. Thuyết còn chút tình người, song vợ Thyết từ lâu hậm hực, căm ghét, sợ phải chia gia tài, phải nuôi tốn kém… nên đã đồng ý liền, coi như trút được hết gánh nặng tội nợ… Ông Hoàng Đường vội mang cậu bé Sắc về ngay.

Ngày xưa, người hiểu biết cũng thường quan tâm tới nòi giống. Ngày nay lại nói tới nguồn gien và tin theo thuyết di truyền. Nguồn gien quý thường được nuôi dưỡng, giữ gìn. Thấy lúa tốt phải hỏi giống gì, thấy con tốt phải xem cha mẹ chúng…

Từ ngày ông Tú Hoàng Đường mang Sắc về, ông trở thành cha nuôi và là thầy giáo của cậu bé. Năm Sắc mười tám tuổi, cậu được ông Đường gả con gái đầu lòng của mình là bà Hoàng Thị Loan, mươì ba tuổi, cho. Ba năm sau bà Loan sinh cô Thanh, bốn năm tiếp sinh cậu Khơm (Khiêm) và vài năm sau nữa lại sinh cậu Côông (Công)…

Người phụ nữ thứ ba (của ông Hồ Sĩ Tạo) là bà vợ kế ở quê nhà. Khi bà cả qua đời, gia đình không người chăm lo, ông Tạo đã cưới người vợ thứ. Bà sinh hạ cho ông một con trai rất thông minh, học giỏi, nhưng chỉ đi thi hộ người khác lấy tiền cờ bạc rượu chè, không màng tới tiến thân.

Người phụ nữ thứ tư là cô gái quê ở Quảng Trạch, Quảng Bình. Ông nói dối là ông không còn vợ để được cưới bà. Bà con nhà gia thế, nên về sau, khi chuyện vở lỡ, gia đình đã kiện quan về chuyện này. Bà sinh hạ được hai người con trai. Thời gian sau đó, ông Tạo cáo quan về nhà dạy học.

Người phụ nữ thứ năm là một cô gái nghèo ở thôn Nam Lĩnh, cùng xã, nơi ông Tạo dạy học những ngày cuối đời. Hàng ngày cô vẫn thường đi bán chổi đong gạo. Khi có một con gái với ông Tạo, người ta gọi là cô Chổi. Lúc này ông Tạo đã bảy mươi tuổi. Ba năm sau, ông Tạo qua đời. Nhà cũng chẳng có gì, con trai cờ bạc, rượu chè phá phách hết, ông chỉ để lại cho con gái một chiếc áo bông cũ, đắp lấy hơi cha!

Người con gái út này của ông Tạo là bà Hồ Thị Từ (tên khai sanh là Thuyến). Hoà bình lần thứ nhất, bà vẫn sống khoẻ mạnh. Bà lấy chồng họ Tôn. Ông là bác ruột của giáo sư Tôn Tích Thạch. Và vì không có con trai nên đã coi Thạch là con, cho tới 1955, Thạch qua Lien Xô du học. Hơn 7 năm sau trở về thì ông bà đã qua đời. Ông Tôn Quang Phiệt cũng họ này.

Tôi còn nhớ như in mỗi lần bà về quê là đi khắp bà con xóm làng, ăn trầu luôn miệng và nói cười ha hả, rất vui. Bà kể biết bao nhiêu là chuyện, trong đó có chuyện cái huyệt mộ ông Tạo được cải táng. Ông Tạo bị cảm bệnh tại thôn Nam Lĩnh trong xã, con cháu đưa về nhà thì ông qua đời. Ông chết trong lặng lẽ, giữa ngày thời tiết không thuận nên chỉ có xóm giềng biết với nhau. Chỉ khi cải táng (1911) học trò mới làm lễ lớn. Cái huyệt mộ cải táng là do ông Tạo chọn cho mình ngày còn dạy học ở quê vợ, xã Xuân Trường.

Theo bà Từ: Mộ được táng dưới một khối đá ngầm, phải đào hố sâu bên cạnh, khoét ngang rồi đun tiểu sành đựng hài cốt vào, nén đất lại, trên dựng một mộ chí đơn sơ. Bà bảo đó là cái hàm dưới của Miệng Rồng (Chuyện này, khi xây dựng đường điện siêu cao thứ nhất, bác Hồ Nhã Đỉnh, ở Viện Năng lượng, về vùng Nam Đàn giám sát, bác cháu gặp nhau, trò chuyện, bác còn nhắc lại cho nghe lần nữa). Nay bia mộ ông Tạo chỉ là một mảnh đá nhỏ. Phía trên bị đập vỡ chỉ còn lại một chữ thiếu nét và một chữ "Nhã". Đọc bên phải: "Mậu Thìn Giải nguyên" (ông Hồ Sĩ Tạo đậu Giải nguyên triều Nguyễn, Huế, khoa Mậu Thìn (1868), cùng khoa thi này Hoàng Cao Khải đậu cuối bảng. Theo cụ Hồ Sĩ Huề kể: Có lần ông Tạo ra Hà Nội. Hoàng Cao Khải đã tự tay bưng nước đến để ông Tạo rửa mặt mũi, tay chân. Có lẽ ngoài việc trong vọng, đây còn nhằm mực đích mua chuộc sĩ phu…). Dọc bên trái bia mộ: "Tri phủ Quảng Trạch". Chính giữa phía dưới: "Hồ Tiểu Khê chi mộ". Việc cải táng hoàn toàn do học trò ông Tạo tuân theo di huấn của thấy mà làm, rất long trọng, có nhiều vị khoa bảng của hai huyện Thanh Chương, Nam Đàn tới dự (nhưng chắc chắn là không có ông Nguyễn Sinh Sắc. Bởi ông đã vào Kinh nhậm chức theo lệnh vua).

Năm người đàn bà gắn bó với một người đàn ông, chuyện thật khó tin. Chắc ông Tạo tài hoa lắm và cũng đa tình lắm mới cuốn hút được như vậy.

Sách vở ông Tạo để lại đã bị đốt hết trong Cải cách Ruộng đất. Còn sót một tập thơ nhỏ ở nhà cụ Hồ Sĩ Huề, phó giáo sư Ninh Viết Giao đã mượn, nay chắc còn chỗ ông ấy!


*


Cụ Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân khoa thi Hương năm Ngọ (1894) tại Trường Nghệ, nhưng trượt khoa thi Hội tiếp theo. Để chuẩn bị cho Sắc vào tiếp khoa thi năm Tuất (1898), ông Tạo suy nghĩ rất nhiều. Các con trong giá thú ở quê chẳng đứa nào nối được chí cha. Thông minh thì cũng có đủ, nhưng lười học, chỉ thích cờ bạc, rượu chè. Duy chỉ có đứa con ngoài giá thú là Nguyễn Sinh Sắc lưu tâm tới việc học hành, không thể để nó bỏ dở sự nghiệp và phụ lòng mong mỏi của bao người. Nghĩ tới đây, ông sai người mài mực, lấy giấy bút viết thư. Ông nhớ tới ông Thượng thư họ Hồ ở An Truyền đã nhận đồng tông với mình. Nhớ tới ông Cao Xuân Dục, một học trò, đang là quan to của triều đình. Đằng nào cũng phải nhờ họ giúp. Xưa nay mình đã nhờ vả họ gì đâu!

Vậy là nhờ có bức thư ấy, mà các vị đại thần họ Hồ, họ Cao ra tay giúp đơc để ông Sắc được vào học Trường Quốc Tử Giám. Đó là việc rất dễ nhận biết:
Trường Giám là trường của Hoàng gia, quý tộc, con dân làm sao mà vào nổi?

Ông Sắc vào Trường Quốc Tử Giám mang cả gia đình đi theo, chỉ trừ cô Thanh ở nhà với bà ngoại, làm phận sự thay cho bố mẹ. Vào Huế, ông đổi tên là Nguyễn Sinh Huy. được sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của các vị đại thần quen biết ông Tạo, cùng các quan khác người Nghệ Tĩnh. Bà Loan dệt vải nuôi con. Ở chốn Kinh thành, cuộc sống có dễ dàng gì đâu!

Khoa thi Mậu Tuất, ông Sắc lại rớt. Bà Loan sinh thêm cậu Xin. Và vì quá kham khổ, lao động quá sức, bà lâm bệnh và qua đời cuối năm Canh Tý (1900). Chỉ ít lâu sau, cậu Xin cũng quy tiên theo mẹ. Ba cha con ông Sắc lại dắt díu nhau về Nghệ.

Khoa thi năm Tân Sửu (1901) ông Sắc trúng Phó bảng nhưng không ra làm quan mà xin ở nhà nuôi mẹ già yếu. Thời kỳ này ông lên dạy học ở Thanh Chương. Ông nghĩ mình trước hết phải trọn đạo hiếu với cha mẹ. Nếu không, sao đáng làm người. Giai đoạn đầu ông Sắc dạy học ở nhà thờ họ Lê ở Nguyệt Bổng (nhà thờ này nay vẫn còn ở chân cầu Rộ), sau chuyển sang nhà ông Hàn Kháng, họ Phan ở Võ Liệt - là một họ khoa cử, có người nổi tiếng như tiến sĩ Phan Sĩ Thực - Ngôi nhà này đã bị tịch thu chia cho nông dân trong Cải cách Ruộng đất). Chỗ ở này cách nhà ông Tạo có con sông Rộ nhỏ thó, xắn quần là có thể lội qua. Như các cụ trong dòng họ kể lại thì ông Sắc đã dẫn cậu Công qua chơi với ý định nhận cha, nhưng việc đó chưa kịp làm thì năm 1904 bà đồ An qua đời. Đầu năm 1905, ông Sắc được triệu vào kinh nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ do cụ Phan Chu Trinh giao lại. (Việc chưa nhận cha còn có thể do quy ước khắt khe của dòng họ – Ví như cụ Hồ Sĩ Tôn, 2 lần đậu đầu khoa: "Thiên hạ sĩ vọng vã", "Thiên hạ cống sĩ", là bố ông nghè Hồ Sĩ Tân. Thời trẻ dạy học ở Hưng Nguyên, có một con trai với cô con dâu nhà ho Bùi. Về sau anh này cùng con mình đều đậu tiến sĩ. Hai cha con về Quỳnh Đôi nhận họ, nhưng vì quy định đó mà không thành. Hai cha con đành đứng ngoài cổng nhà thờ họ, vái lạy rồi quay về. Nên đến nay con cháu vẫn mang họ Bùi…)

Cuộc đời làm quan và phiêu bạt của ông Sắc tính từ đây. Năm 1907, ông Sắc được bổ Tri huyện Bình Khê và chỉ bốn năm sau đã vướng vào trọng tội…

… Bữa đó, ông Sắc đang ngồi tự lự, mượn chén rượu giải sầu, lòng tràn nỗi niềm thương cảm đối với vợ con. Ông tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo khổ, mái tranh, vách đất, chẳng chút tài sản nào dư dả để nuôi con… Bỗng có lính bẩm báo:

"Thưa quan, mấy gã chống thuế hôm qua lại đến."

Ông lập tức truyền cả bọn vào và giữa lúc ngà ngà say, ông bảo:

"Bọn bây phải biết rằng, chỉ có vua mới miễn được thuế. Còn ta chỉ có đồng lương ít ỏi phải bù cho số thuế thiếu kia. Ta đã cho người dò la kỹ rồi: Nhà tụi bây còn giàu hơn cả quan đây. Làm ruộng thì phải đóng thuế, chống lại là cớ làm sao?"

Cả đám lập tức nhao nhao nói hỗn, chửi bới, chỉ trích quan tham nhũng, ông Sắc nổi cáu, truyền:

"Lôi ra ngoài đánh bọn chúng cho ta."

Bọn lính lôi cả đám ra ngoài đánh đập thỏa sức. Bất đồ một người trong bọn trúng chỗ hiểm, lăn ra chết… Lệnh ông ban quên không hạn chế mấy roi, nên bọn lính đã quá tay. Triều đình triệu ông về Kinh chịu tội. Vua phê: "Trảm!". May nhờ có các ông Thượng thư họ Hồ, họ Cao và Đào Tấn cùng rập đầu xin vua tha chết. Cả ba ông đều tâu vua: "Nguyễn Sinh Huy làm quan thanh liêm, xử án công minh, bốc thuốc chữa bệnh người rất tận tâm… Việc xảy ra chỉ là do sơ suất và bọn lính đã quá tay…"

Vua cũng biết Nguyễn Sinh Huy là quan thanh liêm, không hề có tư túi gì, nên sau một lúc suy nghĩ đành giảm xuống "Trảm giam hậu!" (giam chờ chém sau) và phạt đánh 100 roi. May nhờ có Thượng thư Bộ binh Đào Tấn lo lót cho bọn lính nên được nhẹ đòn và ông Huy thoát chết. "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". Nhân buổi lộn xộn chưa quyết, nhờ có người ngầm giúp, ông Huy chuồn thẳng! Các cụ già quê tôi, người thì bảo ông cải trang làm phu xe theo đoàn khách thương chở hàng vô Nam, kẻ lại bảo ông xuống một thuyền buôn dông thẳng vào Gia Định. Mỗi người một phách, nhưng cũng chẳng sao. Điều cơ bản là ông Huy đã thoát khỏi cái lưỡi dao thái thịt người đang lơ lửng trên đầu và có thể hạ xuống bất ký lúc nào…




*


Cậu Công gặp lại cha ở một địa điểm kín ở Gia Định, trong một buổi, trước khi cậu xuống tàu đi xa. Dặn dò con xong ông Huy lặn sâu vào giữa vùng Đồng Tháp Mười, chẳng để lại dấu vết nào với người đời, rằng mình đã từng là một Phó bảng thứ thiệt, là ông Huyện Bình Khê…

Ngày ấy Đồng Tháp Mười còn rậm rì năn lác, đường bộ chưa có là bao. Giao thông chủ yếu là nhờ vào những chiếc xuồng tam bản tự tạo của đồng bào sống ở miệt sình lầy. Ông Nguyễn Sinh Huy lặn lội đến vùng Cao Lãnh ngày nay thì dừng lại, ở nhờ một ngôi chùa. Nơi đây ông giấu biệt tông tích của mình, tự xưng là Cụ Vương, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh.

Nhà Phật vốn chủ trương "cứu nhân độ thế", các sư cũng luôn làm nhiệm vụ bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Bấy giờ làm gì có bệnh viện hay hiệu thuốc ở những vùng sâu, xa như thế. Thấy Cụ Vương giỏi y thuật, lại sống độc thân nên các sư rất mừng, lưu cụ ở luôn tại chùa để giúp đỡ bao nông dân nghèo khó đang hàng ngày vất vả kiếm sống và cũng vất vả chống lại tật bệnh, ốm đau. Phong trào chống thuế ở miền Trung đang nổi lên rần rần, nên nhà vua cũng làm ngơ luôn cái án của ông Tri huyện Bình Khê. Vậy là ông Nguyễn Sinh Huy được triều đình "bỏ quên".

Chẳng bao lâu, cái tiếng của vị thầy thuốc giỏi, lại nhân từ, sẵn sàng chữa bệnh không công cho người nghèo, theo những chiếc xuồng nhỏ, len lỏi trên sông nước, trên kênh rạch lan truyền đi khắp vùng. Người ở xa chở con bệnh tới để chữa trị hoặc mua thuốc mang về. Người gần mời cụ ngồi xuồng tới nhà bắt mạch điều trị. Nhà nghèo cụ miễn luôn mọi khoản. Đức độ của cụ hoà vào nước Đồng Tháp Mười, thấm sâu vào đất đai, tạo nên vựa lúa bạt ngàn hôm nay…

Có lần chữa trị dài dài, cứu được mấy mạng người trong một gia đình, giúp họ thoát khỏi dịch bệnh, ông già Mai Nhuận trả ơn bằng cách gả cô con gái út của mình cho ông Vương.

"Không dám…", Ông Vương cười. Chữa bệnh cứu người là công việc hàng ngày, tôi đã nguyện theo đuổi suốt đời, đâu dám mong có ân huệ đền đáp. Cô nhà đây còn nhỏ tuổi hơn cả con trai út của tôi. Nhận lời cụ chẳng hoá ra tôi là thằng khốn nạn hay sao?

"Chúng tôi không quan tâm tới việc thiên hạ dư luận, chỉ cần cụ nhận lời và nuôi cháu là nhất định gia đình sẽ có ngày mở mày mở mặt. Nó đến với cụ cũng đã sung sướng cho bản thân nó. Công việc nấu nướng, chợ búa… giúp cụ chuẩn bị thuốc men, so với việc đồng áng khác nhau một trời một vực, việc gì nó chẳng làm được. Cụ đừng lo…"

Năm ấy, ông Sắc đã ngoại lục tuần. Cô gái họ Mai mới ngoài hai mươi, nhỏ hơn cậu Công.

Ít lâu sau cuộc tình duyên muộn mằn ấy, cậu Vương Chí Nghĩa chào đời (1927). Ông Vương Chí Nghĩa là bố của Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt cùng năm người con gái khác. Theo Thượng toạ Thích Chân Quang, khai sinh lấy họ Vương, nhưng trong tiềm thức, trong gia phả là họ Hồ. Cụ Vương dặn như vậy. Lấy họ Vương là để che mắt kẻ thù. Việc rời Đồng Tháp lên Tây Nguyên cũng là vậy. Phải tránh sự khủng bố, truy bắt, bảo vệ mình và mở ra con đường kiếm sống lâu dài. Thượng toạ Thích Chân Quang sinh ở Tây Nguyên tháng 12.1959. Tốt nghiệp đại học Khoa tiếng Anh, xuất gia năm 1980 cùng chị gái là Hồ Thị Minh Nguyệt, hơn ông hai tuổi.

(Ngày làm lễ Nhập hồn Tượng cho vua Hồ Quý Ly và nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi, Thượng toạ Thích Chân Quang cười nói với tôi: "Em viết việc tìm họ của anh đơn giản và dễ dàng quá! Thật ra là bọn anh phải dằn vặt, đau khổ, đi xác minh cẩn thận, có thu âm, ghi hình đầy đủ, người ta mới công nhận. Những người trông coi Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp cứ một mực bảo ông Sắc không có vợ lẽ ở đây! Anh sẽ ghi lại cụ thể chuyện này gửi em sau. Báo để em biết, anh đã đến thăm chú Hồ Thanh Chương, tình cảm của chú cháu là vô cùng nồng ấm." Thượng toạ đã đối chiếu gia phả và gọi tôi là em, mặc dù tôi nhiều tuổi hơn.)



*


Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy họ Hồ làm họ mới của mình có gì giống với con cháu cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp nhận mình là dòng dõi họ Hồ không? Điều đó chắc chắn chúng ta đã vĩnh viễn không còn được biết. Trong mịt mờ quá khứ xa xăm, trăm ngàn mối quan hệ chằng chịt, đan xen, không ghi âm, chụp ảnh, không quay phim, ghi chép… làm sao lần mò ra được?

Cuốn Ngục trung nhật ký của Bác với 132 bài thơ (từ số 1 đến 133, nhưng bài số 100 chỉ có tên bài đề "Liễu Châu ngục" mà không có thơ), mở đầu bằng bài "Khai quyển", kết thúc là bài "Kết luận" (Nay sách in mới, bài "Kết luận" được thay bằng bài "Mới ra tù tập leo núi", một bài Bác ghi bên lề tờ Nhật báo Quảng Tây, không phải làm ở trong tù). Bài "Kết luận", Bác viết:

Hạnh ngộ anh minh hầu chủ nhiệm
Như kim hựu thị tự do nhân
"Ngục trung nhật ký" tòng kim chí
Thâm tạ hầu công tái tạ ân.

(Tạm dịch: May mắn được gặp Chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt. Mà nay tôi lại là người tự do, "Ngục trung nhật ký" từ nay chấm dứt. Cảm tạ sâu sắc ơn tái tạo của ông Hầu.)

Hầu công mà Bác nhắc ở đây là ông Hầu Chí Minh, thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Hoa Nam của Quốc dân Đảng, người rất mực mến phục Bác, đã can thiệp tích cực để Bác thả ra, trở về lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh rằng, nơi nào trên trái đất này cũng có người tốt!

Cái tên mới của Bác, ta có thể đoán mò một cách không chắc chắn rằng, Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình để làm kỷ niệm. Tên ông là "Sáng Suốt" và việc làm của ông dành cho Bác cũng rất sáng suốt. Còn cái họ thì xin chịu. Liệu có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng từ một ngày rất xa, khi hai cha con còn sống bên nhau không?

Bác đi bôn ba thế giới "tìm đường cứu nước", trải qua một vòng trái đất và mãi hơn 50 năm sau mới về lại quê nhà. Ý định nhận cha, nhận họ của cụ Phó bảng ngày dạy học ở nhà ông Hàn Kháng… cũng chưa thực hiện được. Vào Huế làm quan rồi trốn mãi vào miệt sình lầy Đồng Tháp, cụ không có điều kiện trở về. Ông Hồ Chí Nghĩa cũng vậy, không thể về bởi binh lửa liên miên và đất nước chia cắt. Chỉ mãi hôm nay Thượng toạ Thích Chân Quang mới hoàn thành việc đó.

Từ ngày cụ Phó bảng đi làm quan đến ngày Thượng toạ Thích Chân Quang tìm về, thời gian dài hơn thế kỷ. Chúng tôi lấy làm tiếc, nhà thờ họ Hồ Lai Nhã đâu còn ở chốn xưa! Ngày di dân, lòng tôi như vừa chịu một trận động đất mạnh 9 độ rich-te. Dân quân cả huyện ào ào đến dỡ làng kéo đi, hệt như chạy loạn. Hàng chục chiếc máy ủi màu đỏ son gầm gừ húc cây cối đổ ngổn ngang, san phẳng mọi vườn tược mà không có pháp luật nào giải thích, không một xu đền bù giải toả!... Cha con, anh em, họ hàng phải chia lìa nhau. Người bốc được thăm ở cuối rừng, kẻ bốc được thăm nằm đầu xã, cách nhau ba bốn cây số là chuyện bình thường. Mối quan hệ tộc họ từ ngàn xưa bị rạn vỡ. Nhà thờ họ vốn có vườn riêng đầy cây trái, nay đột nhiên không có đất đứng, phải hốt vào trong hẻm núi sâu, nơi bác tộc trưởng bắt được thăm, phong cảnh thật u ám, thê lương. Thật tiếc, trong thời khắc bối rối ấy, con cháu ở quê cũng không dám đấu tranh đòi cho nhà thờ họ một chỗ xứng đáng! Con cháu đi xa muốn tranh thủ về thăm quê cũng khó khăn. Vùng chân Trường Sơn mưa nhiều hơn nơi khác, đường sá không một tấc nhựa, lầy lội, nhớp nháp bởi thứ đất mến người, lại trèo đèo lội suối quanh co, khúc khuỷu. Anh em bà con nghèo túng hơn, về vài ngày là không thể đi thăm hết được, mà có về cũng vất vả lắm! Thôi đánh chịu lỗi với Tổ Tiên!

Thượng toạ Thích Chân Quang về đúng những ngày mưa tháng bảy. Sau khi dâng hương viếng mộ cụ Hồ Sĩ Tạo xong, mấy chú cháu trong họ, những người đi đón bàn nhau: Xin Thượng toạ hoãn việc về thăm nhà thơ họ Hồ Thanh Khê lại, vì đường quá xấu, xe không vào được. Nếu đi lỡ gặp tai nạn, thật là không nên… Và Thượng toạ đã đồng ý.

Chúng tôi chép toàn là chuyện ở sân sau. Người ta nói: Đời là một sân khấu lớn với hàng ngàn vở diễn, bi có, hài có… ồn ào và sôi động trải ra. Đó là ở sân trước. Sân sau khác hơn. Nó âm thầm, lặng lẽ… Nhưng có lẽ xin được dừng lại ở đây. Dã sử vốn có chỗ dị đồng với chính sử là thế! Cũng với khoảng thời gian chưa xa, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có buổi trò chuyện thân mật với một số con cháu họ Hồ. Chắc rằng mọi chuyện vẫn chưa phải đã hết. Còn có những điều sâu kín, dài dài, chưa thể nói ra, nhưng cũng rất con người, đang ở sân sau…

Mong ông bà, chú bác, anh em… cùng hương hồn Liệt Tổ Liệt Tông tha thứ cho.

Mùa xuân Đinh Hợi (2007)

(Địa chỉ: Hồ Sĩ Sênh, xóm Nghĩa Thai, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn, Nghệ An. ĐT: 0383 785248 begin_of_the_skype_highlighting            0383 785248      end_of_the_skype_highlighting)

© 2007 talawas



[1]Trăm Hoa xuất bản, California 1993, 288 trang (các chú thích trong bài đều của talawas)
[2]Các cách ghi âm khác: Nguyễn Sinh Côông, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Công
[3]Do dời làng lên núi để làm kinh tế

0o0




NHỮNG GIAI THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINH

Posted on 08.11.2009 by nguyentrongtao

Rate This

NTT: Câu chuyện này tôi nghe Giáo sư Trần Quốc Vượng nói hồi tôi làm học trò của ông, và cũng nghe nói một lần đến Mỹ ông đã kể chuyện này nên bị "đì" một thời gian. Nhà văn Sơn Tùng viết nhiều sách về cụ Hồ cũng nói chuyện này, nhưng cũng chỉ là nói chuyện hoặc viết thành bài rồi lưu truyền. Ở nước ngoài, người ta in chuyện này vào sách cũng đã lâu. Nhưng ở Việt Nam thì chuyện này chỉ lưu truyền không chính thức. Gần đây, lần đầu tiên tôi thấy một Website của Nhà nước công bố chuyện này, đó là Website của huyện Nam Đàn quê cụ Hồ: http://www.namdan.gov.vn/ . Đó là câu chuyện cụ Hồ mang họ Hồ (Quỳnh Đôi) chứ không phải họ Nguyễn Sinh (Kim Liên). Vì thế mới có chuyện ông Nguyễn Sinh Hùng (hồi còn làm Bộ trưởng Tài chính) và ông Hồ Xuân Hùng (hồi còn làm Chủ tịch Nghệ An) đã "bí mật" đưa mộ bà nội của cụ Hồ là bà Hà Thị Hy lên núi Động Tranh trên dãy Đại Huệ gần Lăng mộ mẹ cụ Hồ là bà Hoàng Thị Loan. Tôi nghe Hồ Xuân Hùng kể chuyện xây mộ bà Hà Thị Hy khi cùng đến thắp hương cho bà, và còn được biết Hồ Xuân Hùng đã nói với Nguyễn Sinh Hùng lúc xây Lăng: "Tôi mới là cháu thật của Bác Hồ"…

NHỮNG GIAI THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINH


http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12725&rb=0302


29.3.2008
Hồ Sĩ Sênh
Về bài kí "Chuyện sân sau"
 
Bài kí "Chuyện ở sân sau: Về người cha và ông nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh" của ông Trường Lam Hồ Sĩ Sênh được talawas chọn đăng, sau khi toà soạn được biết rõ bối cảnh của bài viết và tác giả. Chúng tôi đánh giá bài kí này là một nỗ lực nghiêm túc và chân thành nhằm tìm hiểu thêm về những chi tiết có thể còn chưa sáng tỏ trong tiểu sử của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam mà thân thế còn những mảng chưa được chính thức công khai trước công luận. Về một số phản hồi sau bài kí này, chúng tôi xin giới thiệu sau đây ý kiến của ông Trường Lam Hồ Sĩ Sênh.
talawas
Nam Đàn, 01/ 11/ 2007


Thân ái cùng độc giả talawas,


Bài kí "Chuyện ở sân sau: Về người cha và ông nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh" được giới thiệu trên talawas chưa lâu thì tôi đã nhận được nhiều cú điện thoại của bạn bè gần xa nhắn về. Qua điện thoại, tôi thấy có một số bạn đọc qua loa nên hiểu sai vấn đề.


Vì vậy tôi xin trình bày lại một số ý sau:


1.


Tôi là con cháu họ Hồ, từ bé đã được nghe kể khá nhiều chuyện của họ tộc và một số nhân vật liên quan, nhưng khi tất cả đang chìm vào dĩ vãng, không còn được ai nhắc đến thì thượng toạ Thích Chân Quang tìm về... Những gì tôi viết hoàn toàn nghiêm túc và đúng đắn.


2.


Có người hỏi căn cứ vào đâu mà nói ông Nguyễn Sinh Sắc là con ông Hồ Sĩ Tạo? Thưa, thượng toạ Thích Chân Quang đã ghi vào sổ vàng lưu niệm tại nhà thờ đại tộc Hồ ở Quỳnh Đôi: Ông là con cụ Hồ Chí Nghĩa, cháu nội cụ Nguyễn Sinh Sắc, chắt cụ Hồ Sĩ Tạo... Bút tích này đã có ở thị trường băng đĩa và nội san họ Hồ in ở Vinh đã chụp lại rõ ràng.


Đầu tháng Bảy Đinh Hợi này, thượng toạ lại ghi vào sổ vàng lưu niệm tại nhà thờ họ Hồ Thanh Khê, nhà thờ cụ Hồ Sĩ Tạo lần nữa... Trước tôi chỉ nghe kể nên không thể viết, nhà văn Sơn Tùng cũng dừng lại... không thể viết ra cụ thể.


Nay tôi ghi lại thì có gì là quan trọng?


3.


Tôi là con rể làng Sen, bà mẹ vợ người họ Nguyễn Sinh. Ông bà sinh sau thời điểm Bác rời Bến Nhà Rồng, chỉ cách nhà Bác 300m, và đã qua đời. Nhưng mấy chục năm qua không phải không được nghe kể đôi điều về gia đình Bác, huống nữa nhà văn Sơn Tùng đã viết nhiều trong Búp sen xanh.


4.


Có người nói tôi nói xấu Bác Hồ? Thưa rằng: Bác là vĩ nhân, là cha già dân tộc, người sáng lập Đảng, mặt trận, nhà nước, quân đội, là người cầm lái xuất sắc nhất con thuyền cách mạng Việt Nam. Kẻ thù trước đây cũng không nói xấu được, huống chi tôi? Trước Bác tôi đâu dám nhận quàng làm người họ tộc? Mà chỉ nêu hai điểm:
  • Về họ: Tôi nói điều này đã vĩnh viễn không còn được biết, chẳng có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng.
  • Về tên: Tôi đoán mò rằng Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình ra khỏi nhà tù... để làm kỉ niệm và chỉ có vậy thôi!
5.


Về thượng toạ Thích Chân Quang: ông là nhà sư đức cao vọng trọng, là người truyền giảng đạo Phật trên nhiều vùng đất nước, luôn gắn đạo với đời và mong cuộc đời ngày một tốt hơn. Người như vậy làm sao có sự khuất tất? Thanh Khê chúng tôi là vùng nghèo, miền núi đi lại khó khăn vậy mà thượng toạ vẫn tìm về dâng hương ở nhà thờ họ và nhà thờ cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo. Con cháu trong họ rất trân trọng và quý mến cái tâm của thượng toạ.


6.


Kí của tôi là dã sử, nó có chỗ khác với chính sử. Dã sử chỉ để tham khảo mà thôi!


7.


Những bạn đọc góp ý, khen ngợi, bổ sung... tôi xin trân trọng ghi nhận. Tôi là một "phó thường dân", ai gọi tôi bằng gì cũng được, tôi không hề nhận một xu nào của ai... Nhưng những kẻ gọi vị giáo sư sử học tên tuổi, đáng kính là "thằng này, thằng nọ, đồ này đồ nọ"... "nhận đôla rồi bịa đặt..." thì tôi coi là thiếu giáo dục, là vô học và xin được miễn tranh cãi và trả lời.


8.


Bài kí của tôi chỉ giới thiệu duy nhất trên talawas. Những báo và những ai không có sự đồng ý của tôi đã trích đăng, nhào nặn, bóp méo, thêm thắt... kí tên tôi để phục vụ cho những mưu đồ đen tối và mục đích chính trị bẩn thỉu, tôi cực lực phản đối.


Tôi viết sự thật không chứa đựng một ý đồ nào. Vì uy tín của tờ báo, tôi kính đề nghị talawas phát biểu chính kiến của mình.


Lần nữa xin chân thành. Cảm ơn bạn đọc


Trường Lam Hồ Sĩ Sênh 



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Monday, 3 October 2011 4:53 PM
Subject: Re: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (7) - Gốc tích ?

 
Chỉ có thử DNA là biết rõ thôi

Nhưng chuyện cụ Nguyễn Sinh Sắc được nhận vào học Quốc Tử Giám là rất lạ

D~



http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050808_trongcoi.shtml


08 Tháng 8 2005 - Cập nhật 10h44 GMT

Gửi trang này cho bè bạn Bản để in ra
Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh
Hình chụp một trang của cuốn Ngục Trung Nhật Ký
Hình chụp một trang của cuốn Ngục Trung Nhật Ký
Một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, đã qua đời, thọ 71 tuổi.
Tin từ Việt Nam cho biết giáo sư Trần Quốc Vượng đã nằm viện một tháng nay vì căn bệnh ung thư thực quản.
Ông qua đời vào lúc 2h55 sáng nay.
Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng 12-8 ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
Là tác giả của hàng chục đầu sách và nhiều bài viết, từ nhiều thập niên qua, ông được xem là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu.
Một trong những bài viết gần đây của ông, ''Hà Nam quê tôi'', có thể đọc bằng cách bấm vào link bên phải.
Một bài viết khác liên quan chủ đề lịch sử khi ra đời năm 1993 đã gây ý kiến trái chiều.
Đó là "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", in trong quyển Trong Cõi (NXB Trăm Hoa, California, 1993). Đây là tập hợp một số tiểu luận của giáo sư Trần Quốc Vượng sau chuyến đi công tác ở Hoa Kỳ.
Chủ đề chính của bài là thông qua những kinh nghiệm hỏi chuyện dân gian, người ta có thể biết những điều mà sách vở không nhắc đến.
Theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử."
"Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là Thật mà không chắc là Thực."
Dưới đây là trích đoạn phần cuối của tiểu luận của Trần Quốc Vượng:
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cu. Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".
Trần Quốc Vượng



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Monday, 3 October 2011 4:26 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (6) - Năm sinh ?

 

Theo các tài liệu đăng trên Wikipedia
 
1884 Năm sinh của Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954), chị cả của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành)
1888 Năm sinh của Nguyễn Sinh Khiêm (Chữ hán 阮生謙 18881950) anh của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành)
1890 ? hoặc 1892 ?: Năm sinh của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành)
1890 Năm sinh của Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin[
1891, ông Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy) vào Vinh thi tú tài nhưng không đỗ

0o0


T ừ đó suy ra, ông Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) chỉ có thể sinh vào cuối  năm 1898 (nếu ông Khiêm sinh vào đ ầu năm 1898) , hoặc đầu năm 1890 (n ếu như ông Nhuận sinh v ào cuối năm 1890), nhưng nhiều xác suất, ông Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) sinh vào năm 1899,  nhỏ hơn anh ruột ông ta (Nguyễn Sinh Khiêm) 1 tuổi và lớn hơn ông em xấu số của ổng (Nguyễn Sinh Nhuận) 1  tuổi
Theo tài liệu chính th ức mà ĐCSVN, ông H ồ sinh ngày 19-5-1890. Như vậy là cùng  năm sinh với em cùng cha cùng mẹ với ông ta  -> V ô l ý, do đó 1 trong hai năm sinh này sai


0o0


Nhà nước CSVN đã không làm sáng tỏ được ngày, tháng và năm sinh
của ông Hồ , nhưng lấy đại ngày 19-5-1890 ?


Nếu vậy thì kỳ quá


Còn nếu không, phải điều tra kỹ hơn về mọi dữ kiện, trước khi quyết định


0o0


Bài sau sẽ đưa ra những mảng tối về việc ông Nguyễn Sinh Sắc từ quan, hay bị sa thải ?


Và Nguyễn Tất Thành có ý định tìm đường cứu nước vào lúc nào ? hay chỉ vì lý do khác ?


D~


"…Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất[cần dẫn nguồn]:
  • Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
  • Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
  • Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894…."
 
"…
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ[18]. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
…"
 
 
0o0
 
Nguyễn Sinh Sắc (chữ Hán: 阮生色; còn gọi là Nguyễn Sinh Huy [chữ Hán阮生輝], nhân dân còn gọi tắt là Cụ Phó bảng; 18621929) là thân sinh của Hồ Chí Minh.
Ông là con của một gia đình nông dân nghèo, chất phác. Cha, mẹ mất sớm, ông phải vất vả lao động kiếm sống và có ý chí học hành.

Tượng cụ phó bảng trong di tích Mộ cụ Phó Bảng - Đồng Tháp
Theo các tài liệu chính thống thì ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy. Tuy nhiên, theo Trần Quốc Vượng ghi lại từ những lời truyền miệng trong dân gian thì ông Nguyễn Sinh Sắc có thể là con của ông Hồ Sĩ Tạo và bà Hà Thị Hy[1][2].
Là một cậu bé hiền lành, thông minh, ham học, Nguyễn Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Năm 1891, ông vào Vinh thi tú tài nhưng không đỗ[3]. Năm 1894, ông tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Ông được người cha nuôi, cũng là thầy giáo, gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ.
Năm 1901, ông đỗ Phó bảng. Sau khi đỗ Phó bảng, ông chỉ ra làm quan một thời gian ngắn rồi bị cách chức vì tội đã đánh 100 roi một người có quyền thế, và sau đó người đó đã chết.[4]
Sau khi bị cách chức, ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời, được nhân dân mến mộ và thương tiếc.
Ông mất năm 1929. Lăng mộ của ông hiện nằm ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Ông có 3 người con trai và 1 người con gái. Người con trai thứ 4 tên là Nguyễn Sinh Nhuận mất sớm không lâu sau khi bà Hoàng Thị Loan qua đời. Con gái đầu là Nguyễn Thị Thanh, còn gọi là O (cô) Chiêu Thanh, con trai giữa là Nguyễn Sinh Khiêm, thường gọi là Cả Khiêm. Người con trai thứ 3 của ông là Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh
Ông là con của một gia đình nông dân nghèo, chất phác. Cha, mẹ mất sớm, ông phải vất vả lao động kiếm sống và có ý chí học hành.

Tượng cụ phó bảng trong di tích Mộ cụ Phó Bảng - Đồng Tháp
Theo các tài liệu chính thống thì ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy. Tuy nhiên, theo Trần Quốc Vượng ghi lại từ những lời truyền miệng trong dân gian thì ông Nguyễn Sinh Sắc có thể là con của ông Hồ Sĩ Tạo và bà Hà Thị Hy[1][2].
Là một cậu bé hiền lành, thông minh, ham học, Nguyễn Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Năm 1891, ông vào Vinh thi tú tài nhưng không đỗ[3]. Năm 1894, ông tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Ông được người cha nuôi, cũng là thầy giáo, gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ.
Năm 1901, ông đỗ Phó bảng. Sau khi đỗ Phó bảng, ông chỉ ra làm quan một thời gian ngắn rồi bị cách chức vì tội đã đánh 100 roi một người có quyền thế, và sau đó người đó đã chết.[4]
Sau khi bị cách chức, ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời, được nhân dân mến mộ và thương tiếc.
Ông mất năm 1929. Lăng mộ của ông hiện nằm ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Ông có 3 người con trai và 1 người con gái. Người con trai thứ 4 tên là Nguyễn Sinh Nhuận mất sớm không lâu sau khi bà Hoàng Thị Loan qua đời. Con gái đầu là Nguyễn Thị Thanh, còn gọi là O (cô) Chiêu Thanh, con trai giữa là Nguyễn Sinh Khiêm, thường gọi là Cả Khiêm. Người con trai thứ 3 của ông là Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh
 
Nguyễn Sinh Nhuận
Gia đình Hồ Chí Minh
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Sinh_Nhu%E1%BA%ADn#Nguy.E1.BB.85n_Sinh_Nhu.E1.BA.ADn
0o0



Nguyễn Sinh Nhuận

Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin[11], là con trai út trong gia đình, sau khi sinh bé, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và mất đi. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời mấy tháng sau đó[12].

[sửa]

0o0

Gia đình Hồ Chí Minh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Nguyễn Sinh Nhuận)
Hồ Chí Minh, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Sen (hay làng Kim Liên), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Mục lục

[ẩn]

[sửa]Thân sinh


Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

Bà Hoàng Thị Loan

[sửa]Nguyễn Sinh Sắc

Bài chi tiết: Nguyễn Sinh Sắc
Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy , nhân dân còn gọi tắt là Cụ Phó bảng; 18621929) là thân sinh của Hồ Chí Minh. Ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy, lớn lên trong một môi trường Nho học dưới sự nuôi dạy của nhà Nho và cha vợ của mình là cụ Hoàng Xuân Đường, ông đỗ cử nhân năm 1894 và Phó bảng năm 1901. Năm 1906, ông được triều đình bổ nhiệm chức Thừa biện bộ Lễ[1]; năm 1909, ông nhậm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định[2]. Làm quan được ít lâu thì bị triều đình thải hồi vì một "tên cường hào" bị ông bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng.[cần dẫn nguồn] Sau đó ông đi vào miền Nam và sống một cuộc đời thanh bạch tại Đồng Tháp Mười cho đến cuối đời.

[sửa]Hoàng Thị Loan

Xem thêm Khu mộ bà Hoàng Thị Loan
Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường, bà được cha mình gả chồng vào năm 15 tuổi. Bà là một hình mẫu cho hình ảnh người Việt Nam hiền hậu và hết lòng vì chồng con: sau khi chồng bà là ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi ở Huế, vì túng thiếu tiến bạc nên ngỏ ý mời bà lên kinh giúp ông học tập, bà đã gởi con gái đầu lòng của mình lại Nghệ An và cùng chồng vào Huế. Ở đây bà đã lao động dệt vải vất vả một tay nuôi sống cả gia đình. Năm 1900 sau khi sinh người con thứ tư là Nguyễn Sinh Nhuận, cộng với sự vất vả khó nhọc trước đó bà Hoàng Thị Loan sinh bệnh rồi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901. Năm 1922, hài cốt của bà được cô Nguyễn Thị Thanh đưa về an táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen, Kim Liên. Năm 1942, cải táng tại núi núi Động Tranh thấp, thuộc dãy núi Đại Huệ. 1985, nhân dân và chính quyền địa phương xây dựng tại đây một khu lăng mộ dành cho bà[3].

[sửa]Các anh chị em

[sửa]Nguyễn Thị Thanh


Chân dung bà Nguyễn Thị Thanh
Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1918 bà Nguyễn Thị Thanh phối hợp với Nguyễn Kiên tổ chức lấy trộm súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố Vinh. Bị phát giác nên Nguyễn Thị Thanh bị bắt và nhốt vào nhà tù tra tấn dã man. Vào năm 1918, thực dân Pháp chỉ thị cho quan lại địa phương mở phiên tòa số 80 xử phạt bà Nguyễn Thị Thanh 100 trượng và 9 năm khổ sai. Ngày 2 tháng 12 năm 1918, Nguyễn Thị Thanh bị đày vào giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Án sát tỉnh Quảng Ngãi lúc đó là Phạm Bá Phổ có người vợ bị bệnh đau ở vú không cho con bú được dù đã được cố gắng cứu chữa. Thương người phụ nữ bị bệnh hoạn, bà Nguyễn Thị Thanh đã chữa cho, ít ngày sau bệnh khỏi, dòng sữa con bú được phục hồi. Chính điều này đã làm Phạm Bá Phổ rất nể bà.[4]
Theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng, bà Thanh nói lý do tại sao bà không lập gia đình[5]:
O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì O mới nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được nữa...
Thấy cô Thanh là người vừa xinh đẹp lại vừa thông minh, Phổ muốn đưa về nhà riêng làm hành dịch và dạy cho con cái học. Dù quy chế của thực dân Pháp và triều đình Huế cấm việc đó, nhưng người anh kết nghĩa của Phạm Bá Phổ là Xô đứng đầu mật thám trung kì đã cho phép Phổ đưa cô Thanh từ nhà tù về ở trong nhà Phạm Bá Phổ.[6]
Vào năm 1922, Phạm Bá Phổ được triều đình Huế thăng cho Phổ làm tham tri bộ hình. Bà Nguyễn Thị Thanh cũng đi theo. Ở đây bà đã đem hài cốt của mẹ mình về cải táng tại Nghệ An[7][8].

[sửa]Nguyễn Sinh Khiêm


Hình ông Cả Khiêm trên báo Nhân Dân
Nguyễn Sinh Khiêm (18881950) là con thứ hai của trong gia đình cụ Phó bảng, sau chị cả Nguyễn Thị Thanh và là anh trai của Nguyễn Sinh CungNguyễn Sinh Nhuận .
Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt. Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là "Thầy Nghệ". Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giáng (1897-1960) và có với nhau ba người con nhưng đều chết sớm. Người con duy nhất của hai người, con riêng của bà Giáng, là Hà Hữu Thừa, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Chanh, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà Nguyễn Thị Giáng[9], bà Nguyễn Thị Giáng là người làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2 km, cách phía Bắc trung tâm Huế 20 km. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may chồng bà mất sớm, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang mãi vẫn không khỏi. May được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy nhưng ông Cả không nhận.
Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.
Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại một thời gian để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên vì ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Tháng 2 năm 1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.
Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Thực dân Pháp nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp nên đã bắt giam ông mấy tháng. Theo lời bà Thanh kể lại với nhà văn Sơn Tùng, ông Khiêm đã bị thực dân Pháp "triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc"[10].
Năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.
Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Cả Khiêm và ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Nguyễn Thị Chanh) hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng Minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng Minh vào trung tuần tháng 8 năm 1945.
Sau ngày 23 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Huế, ông mới biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công - chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông.
Đầu năm 1946, ông cùng Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông qua đời tại Nghệ An vào cuối năm 1950, hưởng thọ 62 tuổi.

[sửa]Nguyễn Sinh Nhuận

Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin[11], là con trai út trong gia đình, sau khi sinh bé, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và mất đi. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời mấy tháng sau đó[12].

[sửa]Ông bà

[sửa]Hà Thị Hi

Hà Thị Hi là bà nội của Hồ Chí Minh, mẹ của ông Nguyễn Sinh Sắc[13]. Cuộc đời bà gắn với một giai thoại được truyền tụng trong dân gian, bà cũng là đối tượng của một số nghiên cứu khoa học về nhân vật lịch sử[14].
Ban đầu, ông Nguyễn Sinh Khiêm đem cả hài cốt bà Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan lên táng gần nhau ở chân núi Động Tranh thấp. Về sau này, ông đã quyết định để mộ bà Hy dưới chân núi và đem mộ mẹ lên táng ở vị trí hiện nay để du khách đến viếng mộ bà Hoàng Thị Loan cũng sẽ viếng được mộ bà Hà Thị Hy trước[13].

[sửa]Gia đình riêng

Xem thêm thông tin tại: Tăng Tuyết Minh

Bức chân dung của chính mình được Hồ Chí Minh đề tặng cho cô con gái nuôi Babette với dòng chữ tiếng Pháp được tạm dịch "Gửi một cái hôn lớn cho con gái đỡ đầu bé nhỏ Babette. Cha đỡ đầu của con. Hồ".

[sửa]Những người con đỡ đầu của Hồ Chí Minh

Sinh thời, Hồ Chí Minh có ba người con đỡ đầu ở Pháp, Đức và Nga. Ngày 27 tháng 7 năm 1946, trong buổi chiêu đãi chúc mừng Hồ Chí Minh sang thăm Pháp do Việt kiềuPháp tổ chức tại vườn hồng Bagatelle trong lâu đài Bá tước Artois bên rừng Boulogne, ông Raymond Aubrac, cựu ủy viên Cộng hòa thành phố Marseille và là nghị sĩ Quốc Hội Pháp được giới thiệu với Hồ Chí Minh. Aubrac mời Hồ Chí Minh về thăm nhà mình và ông đã vui vẻ nhận lời và đến ngày 28 tháng 7 thì chuyển đến ở nhà ông Aubrac. Ngày 15 tháng 8, bà Lucie Aubrac sinh hạ bé gái Elizabeth Aubrac. Hồ Chí Minh đã đến bệnh viện phụ sản Bodeloque, đại lộ Port Royal, Quận 5, Paris thăm bà Lucie Aubrac. Tại đây ông đã xin phép ông bà Aubrac nhận làm cha đỡ đầu của bé Elizabeth Aubrac và gọi thân mật cháu là Babette.[15][16]. Ngày 21 tháng 7 năm 1967, giáo sư Raymond Aubrac cùng với giáp sư Herbert Marcovic sang Hà Nội gặp gỡ các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuyển một thông điệp của Tổ chức chống chiến tranh hạt nhân (Prugwash) nhằm tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Trong buổi tiếp hai ông tối 24 tháng 7, Hồ Chí Minh đã hỏi thăm bà Lucie Aubrac và các cháu, nhất là Elizabeth. Ông Aubac đã chuyển món quà tặng của Elizabeth là một quả trứng bằng đá quý đến Hồ Chí Minh.[17]
Ngày 19 tháng 5 năm 1951, gia đình ông bà Walter R. Hartmann sinh sống ở số nhà 13, phố Ernst Thalman, thành phố Potsdam, hạt Sachs, Đông Đức sinh hạ bé trai Knuth Wolfgang Walther Hartmann. Do thấy ngày, tháng sinh của Knuth ngẫu nhiên trùng với ngày sinh của Hồ Chí Minh, ông bà Walter R. Hartmann đã gửi thư cho Hồ Chí Minh đề nghị ông nhận Knuth làm con đỡ đầu. Ngày 15 tháng 9 năm 1951, Hồ Chí Minh đã gửi thư đến gia đình Walter R. Hartmann. Thư có đoạn viết: "Tôi thân ái mừng bà và ông vừa có cháu trai là Knuth Wolfgang Walther Hartmann. Tôi cảm ơn bà và ông đã gửi thư và ảnh cho tôi. Và tôi rất vui lòng nhận cháu làm con đỡ đầu. Tôi gởi biếu cháu một bức ảnh nhỏ và một đồng Việt Nam để làm kỷ niệm".[18]

Hồ Chí Minh, bé Elizabette Aubrac (trái) và bà Lucie Aubrac (phải). Paris-12/9/1946
Mùa xuân năm 1958, tại thành phố Jukovski (ngoại ô Moskva), bà y sĩ Anna Vasilievna là vợ của nhà báo hãng APN (Liên Xô) Dimitri Grigorievich Kolosov (bút danh Denis) sinh con gái là Irina Dimitrievna (tên thân mật là Idrishka). Dù chưa một lần được gặp Hồ Chí Minh nhưng ông bà Kolosov đã viết thư đề nghị Hồ Chí Minh nhận làm cha đỡ đầu cho con gái đầu lòng của họ theo phong tục tốt đẹp của nước Nga. Mùa hè năm 1958, ông bà Kolosov nhận được thư trả lời của Hồ Chí Minh: "Cô An-na Xta-xi-a Va-xi-lép-na và chú Đi-mi-tơ-ri Gơ-ri-gô-rê-vích thân mến! Tôi đã nhận được thư của cô chú và chân thành cảm ơn cô chú đã mời tôi làm cha đỡ đầu cho con gái của cô chú."[19]
Sau này, những người con đỡ đầu của Hồ Chí Minh đều trưởng thành và có những thành đạt nhất định trong cuộc sống. Elizabeth Aubrac trở thành giáo viên. Knuth Wolfgang Walther Hartmann trở thành kỹ thuật viên chăn nuôi bò sữa. Còn Irina Dimitrievna Kolosov phục vụ trong ngành công an, rồi cùng chồng là Igo Tribisov, cán bộ ngành hàng không dân dụng đến làm việc trong một doanh nghiệp khai thác dầu khí ở Tiumen (Tây Siberi).[20][21]

[sửa]Chú thích

  1. ^ Bộ Văn hóa thể thao và du lịch Việt Nam, Di tích Trường Quốc học Huế
  2. ^ Bộ Văn hóa thể thao và du lịch Việt Nam, Khu mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc
  3. ^ Bà Hoàng Thị Loan - tấm gương sáng về "tứ đức"
  4. ^ Trần Minh Siêu. Những người thân trong gia đình Bác Hồ. NXB Nghệ An. Vinh. 1996. Xem từ trang 83 (dòng 10 dưới lên) đến trang 85 (dòng 3 trên xuống).
  5. ^ Cuộc gặp gỡ với người suốt đời chờ đợi thần tượng Nguyễn Tất Thành
  6. ^ Trần Minh Siêu. Những người thân trong gia đình Bác Hồ. NXB Nghệ An. Vinh. 1996. Xem trang 85 (dòng 4 đến dòng 9).
  7. ^ Huyền thoại huyệt đạo bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh - Chương II
  8. ^ Bà Hoàng Thị Loan - tấm gương sáng về "tứ đức"
  9. ^ Nguyễn Đắc Xuân, Làng Phú Lễ - một quãng đời của người anh Bác Hồ, Báo Lao Động, số Xuân 2004.
  10. ^ Cuộc gặp gỡ với người suốt đời chờ đợi thần tượng Nguyễn Tất Thành
  11. ^ Ngôi nhà Thành Nội - Địa chỉ xúc động về thời niên thiếu của Bác Hồ
  12. ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh thời niên thiếu
  13. ^ a b Nhân chứng cuối cùng của huyền thoại núi Đại Huệ
  14. ^ Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh
  15. ^ Trần Đương. Ánh mắt Bác Hồ. NXB Thanh Niên. Hà Nội. 1999. trang 11-13 (tái bản: Tháng 4-2005)
  16. ^ Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris. NXB Côn an nhân dân. Hà Nội. 2003. trang 214.
  17. ^ Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris. NXB Côn an nhân dân. Hà Nội. 2003. trang 215.
  18. ^ Trần Đương. Bác Hồ như chúng tôi đã biết. NXB Thanh Niên. Hà Nội. 1985. trang 50-51.
  19. ^ Trần Đương. Ánh mắt Bác Hồ. NXB Thanh Niên. Hà Nội. 1999. trang 45, 47-49
  20. ^ Trần Đương. Bác Hồ như chúng tôi đã biết và Ánh mắt Bác Hồ. NXB Thanh Niên. Hà Nội. 1985 và 1999.
  21. ^ Bác Hồ với ba người con đỡ đầu ở Pháp - Đức - Nga

[sửa]



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Monday, 3 October 2011 2:49 PM
Subject: Re: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (5) -Hà Huy Tập

 

"Từ cuối năm 1930, ông Hồ bị phê phán là mang lập trường dân tộc, tiểu tư sản, và không hiểu biết vai trò của đấu tranh giai cấp trong cách mạng."

"Báo cáo của Hà Huy Tập về Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương tháng Ba 1935 ở Macao nói rõ là ảnh hưởng của Hồ Chí Minh đối với phong trào cộng sản Đông Dương khi đó đã bị bác bỏ"

" Hồ Chí Minh bị cáo buộc hai sai lầm: năm 1945, ông thỏa hiệp với Pháp khi cho phép họ quay lại Việt Nam; năm 1954, lại thỏa hiệp lần nữa, đồng ý phân cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17"


0o0
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/05/110529_hochiminh_opinion.shtml
Nghiên cứu Hồ Chí Minh như thế nào?


Hồ Chí Minh tiếp tục là chủ đề gây tranh cãi trong cộng đồng người Việt
Hồ Chí Minh là nhân vật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử chống thực dân. Đến năm 1920, ông đã lãnh đạo một nhóm nhỏ người dân thuộc địa của Pháp sống tại Paris và là chủ biên tờ báo của họ, Le Paria. Quỹ đạo ban đầu của cuộc đời ông tương tự như những người chống thực dân khác thuộc thế hệ hậu Thế chiến thứ Nhất, những người thất vọng vì thỏa hiệp hòa bình 1919 đã lờ đi số phận của họ cũng như không hứa hẹn gì về quyền tự quyết mà Tổng thống Mỹ Wilson đề xướng.
Chính trong khoảnh khắc vỡ mộng với Tây phương mà ông Hồ nhìn về Moscow và lời hứa Quốc tế Cộng sản. Giống như những người Ấn Độ, tưởng rằng sự trung thành với mẫu quốc sẽ được tưởng thưởng khi chiến thắng, giống như người Triều Tiên và Trung Quốc, đã từng hy vọng có nhượng bộ từ Hội nghị Hòa bình Paris, ông Hồ và các đồng chí tin rằng đã đến lúc cho những chiến lược mới. Ông bị thu hút bởi ý nghĩ rằng những người cách mạng Nga sẽ thuyết phục giai cấp công nhân phương Tây chiến đấu cho quyền của người dân thuộc địa.
Với các cây bút người Việt cánh tả lẫn cánh hữu, dường như không thể có nghiên cứu nghiêm túc về Hồ Chí Minh. Giai thoại thay thế cho sự phân tích thực sự quan điểm của ông và những đóng góp về chính sách sau 1945.
Khi ông Hồ đến Moscow mùa hè 1924, cuộc sống của ông bị cuốn vào những tranh cãi, tin đồn và bí mật của phong trào cộng sản. Điều này tạo ra khó khăn lớn cho giới sử gia ngày nay viết về Hồ Chí Minh. Nhìn từ quan điểm phương Tây trong thập niên 1960, sau chuyến thăm Moscow của ông Hồ, các lựa chọn của ông thật rõ ràng và dễ đoán; chúng ta cũng cho rằng chính sách của Quốc tế Cộng sản luôn được định ra rõ ràng. Chúng ta quên mất rằng Tôn Dật Tiên đã hợp tác với cộng sản Liên Xô năm 1923 và rằng việc ông Hồ đi sang Moscow năm 1924 có thể xem là sự mở rộng tìm kiếm hợp tác của những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam muốn tìm đồng minh ở cả Nhật, Trung Quốc, Mỹ và Pháp. Bi kịch lớn của ông Hồ là ông không bao giờ tìm ra cách thoát khỏi mối quan hệ ràng buộc này.
Huyền thoại kép
Năm 1945, khi Hồ Chí Minh bộc lộ mình là Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, ông trở thành đối tượng cho đủ loại người viết, phân tích gia và tuyên truyền muốn giải thích ông cho thế giới hay sắp xếp hình ảnh của ông. Mặc dù có lúc ngắn ngủi ông cố kiểm soát tiểu sử của chính mình, nhưng nó không còn là lựa chọn cho một lãnh đạo không có quyền uy tuyệt đối. Sang thập niên 1950, ban tuyên truyền của đảng cộng sản dường như đã kiểm soát hình ảnh của ông như một lãnh tụ khôn ngoan, sáng suốt, xóa đi hầu hết cuộc cãi vã và đấu tranh chính trị trong đảng từ 1945 đến thập niên 1960. Hồ Chí Minh bị mắc kẹt trong cái mà tôi gọi là "huyền thoại kép" – cả phe tả lẫn phe hữu đều dần xem ông là một lãnh tụ tuyệt đối theo kiểu Mao hay Stalin. Hoặc ông là lãnh tụ thần thánh dành cả đời cho công cuộc độc lập của Việt Nam, hoặc ông là một nhân vật cộng sản độc tài, giả vờ là cha già dân tộc trong mắt thế giới bên ngoài trong khi lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua thanh trừng, một cuộc cải cách ruộng đất tàn khốc, và hủy diệt tự do trí thức. Mặc dù kể từ khi chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô sụp đổ, đã xuất hiện một ít tiểu sử nghiêm túc và tinh tế về Hồ Chí Minh, nhưng theo tôi, nói chung người ta vẫn không muốn rũ bỏ thứ ngôn ngữ Chiến tranh Lạnh trước đây.
Dường như một số cây bút vẫn tin rằng cách nhanh nhất để làm suy yếu chính quyền Việt Nam hiện nay là hạ bệ danh tiếng của Hồ Chí Minh. Nhưng đây là trò chơi cũ rồi – nó cũng không có ảnh hưởng với ban lãnh đạo hiện tại đang dựa vào một nền kinh tế tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài và hệ thống cà rốt và cây gậy khéo léo để dân chúng vâng lời. Về mặt chính trị, chính quyền cũng không có mấy liên hệ với Hồ Chí Minh dẫu cho từ năm 1991 họ đã tôn "Tư tưởng Hồ Chí Minh" lên thành ý thức hệ quốc gia.
Với các cây bút người Việt cánh tả lẫn cánh hữu, dường như không thể có nghiên cứu nghiêm túc về Hồ Chí Minh. Giai thoại thay thế cho sự phân tích thực sự quan điểm của ông và những đóng góp về chính sách sau 1945. Ví dụ, có nhiều cách kể về thái độ của ông trước vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ và tham gia công tác của hội phụ nữ của Việt Minh. Nhưng còn có rất nhiều tư liệu có sẵn cần được phân tích – từ báo chí, nguồn Đông Âu và Trung Quốc, chưa kể đến ấn bản Văn kiện Đảng mới nhất. Đã có ai thực sự đối chiếu tác phẩm về Cải cách Ruộng đất của Trần Phương hay Edwin Moise, vốn đặt ra nhiều câu hỏi về những năm đó? Ai hay cái gì chịu trách nhiệm cho cuộc thanh trừng đạt cao trào vào đầu năm 1956, khi, như Moise mô tả, "các tổ chức cũ" tại làng quê, gồm cả đảng Lao động và Việt Minh, bị giải thể và các đảng viên của họ bị bắt giam?

Tác giả cho rằng Hồ Chí Minh không phải là lãnh đạo uy quyền tuyệt đối như Mao Trạch Đông
Một điều hầu như không bao giờ thấy trong các bài viết của phương Tây hay người Việt hải ngoại về Hồ Chí Minh là sự chỉ trích ông từ phía những nhân vật ngang hàng, cụ thể là các lãnh đạo cộng sản người Việt. Nhưng đây chính là một cửa sổ cần được những người viết tiểu sử nghiêm túc mở ra. Dù chúng ta đã thoáng nhìn ra sự chỉ trích này nhờ các kho lưu trữ cộng sản từng bị đóng kín, nhưng nhu cầu cần xem xét kỹ không vì thế mà giảm đi. Sự phê phán của những người cộng sản trẻ hơn, quyết liệt hơn, những người đóng vai trò lãnh đạo của phong trào mà ông sáng lập, tỏ ra trước sau như một. Từ cuối năm 1930, ông Hồ bị phê phán là mang lập trường dân tộc, tiểu tư sản, và không hiểu biết vai trò của đấu tranh giai cấp trong cách mạng.
Bị chỉ trích từ nội bộ
Ví dụ, vào tháng Tư 1931, Trần Phú viết thư cho Văn phòng Ban phương Đông ở Thượng Hải, phàn nàn rằng hội nghị hiệp nhất tháng Hai 1930 do Hồ Chí Minh tổ chức, mà đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, bị lây nhiễm tư tưởng của "các tổ chức cách mạng cũ" và đưa các địa chủ nhỏ và vừa tham gia cách mạng. Trần Phú viết: "Công tác của 'hội nghị hiệp nhất' này mang nặng dấu ấn của thời kỳ hợp tác giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là chính sách hữu khuynh của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ 1925 đến 1927."

Nội bộ Đảng Cộng sản trong lịch sử không đoàn kết như nhiều chuyên gia từng nghĩ
Báo cáo của Hà Huy Tập về Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương tháng Ba 1935 ở Macao nói rõ là ảnh hưởng của Hồ Chí Minh đối với phong trào cộng sản Đông Dương khi đó đã bị bác bỏ. "Ở Xiêm cũng như ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng cách mạng-dân tộc, trộn lẫn với chủ nghĩa cải lương và duy tâm của Hội Thanh Niên và đồng chí Nguyễn Ái Quốc." Đến cuối thập niên 1940 và một lần nữa vào năm 1962-63, chúng ta cũng có bằng chứng văn bản về cáo buộc rằng Hồ Chí Minh bị đảng của mình xem là sẵn lòng thỏa hiệp với phương Tây. Ví dụ vào năm 1947, lãnh đạo đảng khi đó, Trường Chinh, viết rằng Cách mạng Tháng Tám bị tổn hại vì thái độ nương nhẹ với những kẻ thù của cách mạng.
Còn năm 1963, chúng ta có bằng chứng từ kho tư liệu ngoại giao Đông Đức cho thấy Hồ Chí Minh bị cáo buộc hai sai lầm: năm 1945, ông thỏa hiệp với Pháp khi cho phép họ quay lại Việt Nam; năm 1954, lại thỏa hiệp lần nữa, đồng ý phân cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Đảng cộng sản khi đó đang mở chiến dịch "chống Xét lại" để dẹp ý tưởng rằng độc lập dân tộc có thể đạt được bằng phương pháp hòa bình. Biến cố này khiến tạm thời làm băng giá quan hệ giữa miền Bắc với Liên Xô và Đông Âu, nơi theo sau khủng hoảng tên lửa Cuba, có mong muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Vào ngày Giáng sinh 1963, Hồ Chí Minh nói với đại sứ Liên Xô ở Hà Nội rằng ông sẽ rút khỏi các công việc hàng ngày.
Nhưng thay vì xem xét chính sách của Hà Nội như quyết định của một tổ chức đảng chia rẽ và hay tranh cãi, nhiều người viết về lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có xu hướng xem mọi bằng chứng về chính sách cực đoan và đàn áp là của Hồ Chí Minh. Nếu đọc bình luận của người Việt hải ngoại, thì xu hướng quy kết này ngày càng rõ trong mấy năm qua khi bàn về giai đoạn sau của Cải cách Ruộng đất và Chỉnh đốn Đảng.
Trong năm nay 2011, 36 năm sau ngày kết thúc chiến tranh, sẽ là điều tốt lành nếu cộng đồng người Việt trên thế giới bắt đầu nghĩ về lịch sử theo một cách khác – như một cuộc tìm kiếm sự minh bạch mà không nhất thiết bắt đầu bằng việc tìm anh hùng và kẻ ác.
Sophie Quinn-Judge là Phó Giám đốc về Triết học, Văn hóa và Xã hội Việt Nam tại Đại học Temple, Hoa Kỳ. Bản dịch tiếng Việt được đăng với sự đồng ý của tác giả, sau khi Bấm bản gốc xuất hiện lần đầu trên Bấm Global Vietnamese Diaspora, trang web tập hợp các nghiên cứu về người Việt hải ngoại.

0o0


Vịnh đền Kiếp Bạc

Cũng tai cũng mắt, cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung chí kiếm cung,
Bác phá quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp lá cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu tới đại đồng
Bác có khôn thiêng cười một tiếng
Rằng tôi kách mệnh đã thành công.

Đứng trước đền thờ Đức ông Trần Hưng Đạo, một vị anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đánh tan đại quân xâm lược Nguyên Mông không chỉ một lần, HCM đã làm bài thơ trên để nói lên cảm xúc của mình.

Trước hết, HCM đã tỏ ra tự hào về bản thân mình, cho rằng mình không kém vị anh hùng trên là mấy, nên đã ngạo nghễ gọi bác xưng tôi, mà tiếng miền Bắc có nghĩa là gọi anh xưng em, thay vì gọi là Ngài hay Đức ông. Cách xưng hô này đã cho thấy chí khí cao ngất trời của HCM: Bác tự đặt mình ngang hàng với Đức thánh Trần. Trong một dị bản khác, hai câu đề như sau:

Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng
Tôi bác cùng mang nợ kiếm cung.

Tình thần hào hùng bất khuất này được thể hiện rõ hơn qua bốn câu tiếp theo (thực và luận):

Bác phá quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp lá cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu tới đại đồng

Trong thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, các câu thơ trong phần Thực và Lụân phải đối chọi nhau từng câu một, từng từ một. Hai câu Thực này còn có dị bản như sau:

Bác đánh quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi giương khởi nghĩa ngọn cờ hồng.

Hai vế đối này cho thấy Bác Hồ đã tự tôn mình lên cao hơn hẳn Đức Thánh Trần: đánh vs giương, thanh kiếm bạc vs ngọn cờ hồng. Qua đó ta thấy rõ ràng Trần Hưng Đạo chỉ thể hiện được lòng dũng cảm hào hùng, còn HCM mới biết kết hợp cả mưu trí và sức mạnh để đoàn kết toàn dân, thu phục nhân tâm nên chiến thắng của HCM mới là toàn thắng. Điều này càng được tô đậm qua hai câu Luận:

Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng

Trần Hưng Đạo có vĩ đại thì cũng chỉ giúp được một quốc gia, còn HCM thì dẫn dắt cả thế giới đến một chân trời mới "thế giới đại đồng".

Vâng, vì thế nên thời đại của HCM mới thật sự là một thời đại vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc:

Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công.
(http://www.webtretho.com/forum/archive/t-489667.html)

Bài thơ Vịnh đền Kiếp Bạc

Tôi anh hùng Bác cũng anh hùng
Tôi Bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu tới đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng 
Rằng tôi cách mạng đã thành công.
(http://ngutu1.blogspot.com/2011/07/bai-tho-vinh-en-kiep-bac.html)


0o0


http://donggionglachong.divivu.com/Tam-linh/2332482/27610/VINH-KIEP-BAC.html



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Sunday, 2 October 2011 8:40 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (4) - Vấn đề nhóm Bauxite VN

 

Vấn đề nhóm Bauxite VN

Còn tin vào Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, tức là còn nằm trong hệ thống Cộng Sản Á Châu.



Sự khác biệt giữa nhóm Nguyễn Tấn Dũng và nhóm bauxite VN chỉ ở chỗ là  nhóm Nguyễn Tấn Dũng nắm đa số, và quyền hành, nhóm Nguyễn Tấn Dũng ủng hộ tướng Nguyễn Chí Vịnh


Nhóm bauxite VN chỉ nắm thiểu số, có 1 số tướng lãnh đàn em ông Giáp, ủng hộ tướng Võ Nguyên Giáp.


Họ được phe tướng Vịnh cho nằm yên, không trấn áp như những người yêu nước khác (chẳng hạn Cù Huy Hà Vũ), vì sao ?


0o0


Ông Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã được nhóm cộng sản quốc tế tạo nên, cho thành lập đảng CS Đông Dương bao gồm đảng CSVN. Chính Mao đã ủng hộ ông Nguyễn Tất Thành vì Stalin không tin tưởng lắm về NTT, rất nhiều đảng viên đàn em của ông NTT (HCM) tin rằng ông ta cá nhân chủ nghĩa, và không xứng đáng nắm quyền lãnh tụ


Nhóm cộng sản Thanh-Nghệ-Tĩnh có khuynh hướng ủng hộ HCM (vì HCM người Nghệ), do đó ủng hộ tướng Giáp


Phe còn lại, hiểu rõ "còn đảng còn mình", nên thực tế hơn, ủng hộ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ... và sau này, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng ...


0o0


Nhóm bauxite VN có thể "sắt máu, giáo điều" hơn cả nhóm NT Dũng. Hãy thử theo dõi những comments mà fan của tướng Giáp chửi, thóa mạ, lên án những ai không xưng tụng tướng Giáp, ông Hồ trên internet thì biết ngay. Chẳng kém Gestapo đâu 


Nhóm bauxite VN có Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những người có trách nhiệm vụ Mậu Thân thảm sát, diệt chủng tại Huế năm 1968


0o0


Sự quả báo đang đến với tướng Giáp (sống lây lất, chết không được) và Hoàng Phủ Ngọc Tường (tê liệt) rành rành ra đấy


Dù phe Tầu Cộng có thắng thế hay không, thì sự thực về ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cũng cho thấy, CSVN chỉ dùng họ như hai bung xung.


Nhưng vì cả hai người này đã điều khiển guồng máy CSVN giết, thanh toán, đầy ải  
quá nhiều người Việt, nên tội ác đã thành quả nghiệp.


Nhiều nạn nhân, gia đình họ, nhiều thế hệ muốn nhìn thấy công lý được thi hành. Nếu không, thì tại VN, bịp bợm, bạo lực, xảo trá, tham tàn vẫn là quyền lực tuyệt đối. Mọi giáo dục, tuyên truyền đều xây trên những điều này, do đó cái quả cũng từ đó mà thành.


Trồng nhân nào, có quả đó




0o0


Nhóm bauxite VN, về mặt chính trị, đưa hình ảnh 1 tướng sát quân, sát nhân lên như một hình tượng, đã là một cái điềm bạo lực


Những nhà sư, trí thức, lãnh đạo nước nào mà muốn chia "vinh dự" trên máu xương chiến tranh đều sẽ phải chia chung trách nhiệm, ít nhất là tinh thần, với những kẻ tội đồ của lịch sử


Giết 1 người bị xử tội sát nhân
Giết nhiều chục ngàn người thành anh hùng
Giết nhiều trăm ngàn người là lão thành cách mạng
Giết nhiều triệu người là lãnh tụ cao cả


Có vô lý không?


0o0


Lừa 1 người là kẻ bịp
Lừa nhiều chục ngàn người là kẻ lãnh đạo ưu tú
Lừa  nhiều trăm ngàn người là chính trị gia ưu tú
Lừa nhiều triệu người là hải đăng trên mặt biển, cha đẻ dân tộc


Có vô luân không ?


0o0


Không phải Mao Trạch Đông đã giết cả nhà Lâm Bưu mà Lâm Bưu không phải là 1 tên nham hiểm, và sát nhân. Chính Lâm Bưu đã cộng tác và gây nên phong trào vệ binh đỏ. Mao trị được Lâm Bưu, như 1 con hổ trị được 1 con cáo


0o0


Đứng bên này chiến tuyến thì Osama Bin Laden là 1 khủng bố, bên kia chiến tuyến ông ta là 1 anh hùng, thánh tử đạo


Nhưng với tương quan nhân quả lịch sử thì "giết người phải đền tội"


0o0


Nhiều chính trị gia, trí thức... khuynh tả muốn xử dụng hình ảnh Võ Nguyên Giáp như một biểu tượng chống Mỹ, chống quyền lực hữu phái


Khi một nền đạo đức như thế đang được những chính trị gia, nhà báo, nhà văn, trí thức ca tụng


Thì phải hiểu tại sao đã có những Stalin, Mussolini, Hitler, Tito


...


0o0


Tầu Cộng đang đè, trấn áp Việt Cộng cũng bắt nguồn ừ nhóm cộng sản quốc tế, và tương quan gữa ông Hồ cùng các đàn anh ca ông ta mà ra


Ngoại trừ, đương nhiên là âm mưu bành trướng, và óc Đại Hán của con cháu Tần Thủy Hoàng, pha thêm máu Mông Cổ, Hồ và nhà Thanh, mới hung hăng, hiếu chiến như thế




D~




02/10/2011


Trung Quốc muốn chiến tranh

Miles Yu / 28-09-2011
Ngọc Thu dịch / Washington Times
Bài báo hàng đầu trên Hoàn cầu thời báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hôm thứ Ba có lời kêu gọi gây hoang mang về tuyên bố chiến tranh chống Việt Nam và Philippines, hai nước mà trong các tuần gần đây đã có những lời phản đối to [tiếng] nhất, chống lại các tuyên bố chủ quyền toàn bộ trên biển Đông (nguyên văn: Nam Hải) của Trung Quốc.
Tựa đề "Đã đến lúc sử dụng vũ lực ở biển Đông; Hãy tiến hành chiến tranh với Philippines và Việt Nam để ngăn chặn có thêm chiến tranh", bài báo của tác giả Long Tao, một bút danh có thể dịch theo nghĩa đen là "Lời giáo huấn của rồng". Cái tên này muốn ám chỉ đến chương thứ ba trong tác phẩm cổ điển quân sự cổ đại Trung Quốc nổi tiếng: "Sáu giáo lý bí mật quân sự", rằng ngoài những thứ khác, thúc đẩy ý tưởng về cách tốt nhất để tạo ra sự kinh hoàng trong quân sự là tiêu diệt những kẻ bất đồng cao cấp nhất.

Việt Nam được Trung Quốc coi như một nước có khả năng quân sự nhất, đất nước mà Chính phủ kiên quyết nhất về chính trị, liên quan đến thách thức tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông.
Gần đây, Philippines đã chọc tức Trung Quốc rất nhiều vì gần gũi với Nhật Bản, và hành động thành công và khó chịu [của Philippines] hồi tuần trước là tổ chức các cuộc hội đàm với ASEAN mà không mời Trung Quốc, hợp tác và làm rõ các tuyên bố tranh chấp, cũng như đồng thuận về vấn đề biển Đông.
Lời nói bốc lửa trong bài viết "Biển Đông là nơi tốt nhất để Trung Quốc tiến hành chiến tranh" là vì "hơn 1.000 giàn khoan dầu ở đó, không có cái nào thuộc về Trung Quốc, bốn sân bay ở quần đảo Trường Sa, không sân bay nào thuộc về Trung Quốc, một khi tuyên bố chiến tranh, biển Đông sẽ là một biển lửa [đốt giàn khoan dầu]. Ai sẽ gánh chịu nhiều nhất từ ​một cuộc chiến? Một khi chiến tranh bắt đầu ở đó, các công ty dầu phương Tây sẽ chạy khỏi khu vực, ai sẽ chịu thiệt thòi nhất"?
Bài viết này tiếp tục tính toán rằng, "các cuộc chiến tranh nên tập trung tấn công vào Philippines và Việt Nam, là hai nước gây rối nhiều nhất, để đạt được hiệu quả của việc giết một con gà để dọa con khỉ".
Về khả năng có thể có sự can thiệp của Mỹ khi Trung Quốc bắt đầu một cuộc chiến ở biển Đông hay không? Theo như bài báo thì, không có gì phải lo, vì Mỹ hoàn toàn không thể mở một mặt trận thứ hai ở biển Đông để đánh Trung Quốc vì Mỹ bị sa lầy trong cuộc chiến chống khủng bố ở Trung Đông.
Hoàn cầu thời báo là tờ báo lớn nhất của Trung Quốc, tập trung vào tin tức quốc tế, dưới sự bảo trợ trực tiếp từ Trung ương Đảng Cộng sản.
Thiên Cung
Trung Quốc có kế hoạch phóng vệ tinh đầu tiên lên không gian vào thứ Năm hay thứ Sáu, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết tại Trung tâm phóng Vệ tinh Tửu Tuyền thuộc tỉnh Cam Túc xa xôi.
Phòng thí nghiệm, được gọi là Thiên Cung, là phần khởi đầu trong kế hoạch của Trung Quốc phát triển các điểm hợp lại và lắp ghép trong không gian cho một quy mô lớn trong tương lai, trạm không gian có người ở sẽ được xây dựng vào năm 2020. Trạm này được thiết kế để làm nơi dừng chân của các tàu Tuần Châu 8, 9, 10, sẽ sớm được phóng vào không gian.
Thiên cung nặng 8,5 tấn, sẽ được đưa vào quỹ đạo bằng tên lửa Trường Chinh 2F. Trung Quốc đang tận dụng lợi thế trong việc thu hẹp chương trình không gian của Mỹ và Nga. Nhiệm vụ của Trạm Không gian Quốc tế dự định sẽ kết thúc năm 2020, là năm Trung Quốc có kế hoạch thay thế và trở thành quốc gia duy nhất có trạm không gian riêng của họ.
Phụ nữ Cộng sản 'Giải phóng' ở D.C.
Đoàn Ballet Quốc gia Trung Quốc hiện đang tham gia biểu diễn một tháng tại Trung tâm Kennedy ở Washington. Một số tiết mục lựa chọn trong chương trình của đoàn đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình dữ dội tại các cộng đồng người Mỹ gốc Trung Quốc trong khu vực.
Dẫn đầu trong buổi trình diễn tối là tiết mục tuyên truyền cổ điển về chủ nghĩa Mao, có tên gọi "Red Detachment of Women", một trong tám vở kịch kiểu mẫu thể hiện sự hỗn loạn của Cách mạng Văn hóa, ủng hộ "bạo lực cách mạng", "chủ nghĩa cộng sản là sự thật" và "Đảng Cộng sản là lãnh đạo của chúng tôi". Một tiết mục khác có tên "Dòng sông vàng", kết thúc với âm nhạc tuyên truyền hào nhoáng của cộng sản, "Phương Đông thì đỏ". Hôm thứ Bảy, một đám đông giận dữ đại diện cho 26 nhóm dân chủ và nhân quyền tập trung gần Trung tâm Kennedy để phản đối sự trình bày về cộng sản.
Miles Yu là người có các bài viết vào thứ Năm [trên "Washington Times"]. Có thể liên lạc với ông tại mmilesyu@gmail.com.
N.T.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Phụ lục bài trên BBC

Chuyên gia TQ kêu gọi chiến tranh biển

Cập nhật: 15:56 GMT - thứ sáu, 30 tháng 9, 2011
clip_image001
Xã luận của báo Trung Quốc nói Việt Nam gây căng thẳng trên Biển Đông
Phân tích gia Trung Quốc đã có bài trên Hoàn cầu thời báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi dạy Việt Nam và Philippines 'bài học đạo đức' bằng vũ lực.
Bài báo bằng tiếng Hoa được đăng hôm 27/9 và bản dịch tiếng Anh sau đó đã xuất hiện và lan tỏa trên mạng internet.
Xã luận mang tựa đề "Thời cơ tốt để có hành động quân sự tại Nam Hải" trên báo đảng là của tác giả Long Tao, phân tích gia chiến lược của tổ chức phi chính phủ Quỹ Năng lượng Trung Quốc và cũng là chuyên gia của Trung tâm An ninh phi truyền thống và Phát triển hòa bình của Đại học Triết Giang.
Ông Long viết: "Đừng lo ngại về các cuộc chiến quy mô nhỏ; đây là cách tốt nhất để giải tỏa nguy cơ chiến tranh.
"Đánh vài trận nhỏ là có thể tránh được những trận đánh lớn".
Phân tích gia này cũng nói Trung Quốc cần chĩa mũi nhọn vào Việt Nam và Philippines, hai nước mà họ cho là đang tìm cách quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và kéo Hoa Kỳ vào cuộc.
"Tôi cảm thấy trong cuộc chiến trên Biển Nam Trung Hoa, chúng ta cần thu hẹp phạm vi tấn công và tập trung vào những nước đang ra vẻ ta đây nhất hiện nay, Philippines và Việt Nam.
"Giết những con gà để dọa bầy khỉ".
Mặc dù vậy ông Long Tao cũng nói Trung Quốc phải dùng các biện pháp hòa bình để ngăn cản các nước xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc.
'Cướp' đảo
Bài trên Hoàn cầu thời báo cũng viết: "Cội nguồn của "vấn đề" Biển Nam Trung Hoa là chế độ Nam Việt Nam và chính quyền độc lập ở Việt Nam sau đó.
"Việt Nam xâm phạm đảo Nam Sa [Việt Nam gọi là Trường Sa] của Trung Quốc và đòi hỏi chủ quyền đối với đảo Tây Sa.
"Ngoài việc trừng phạt chế độ Nam Việt Nam với cuộc phản công trên đảo Tây Sa và cuộc tấn công tự vệ trên đất liền, Trung Quốc chưa bao giờ ngăn chặn được sự xâm lược công khai của Việt Nam ở Biển Nam Trung Hoa".
Ông Long cũng nói Việt Nam đã khuyến khích các nước khác "cướp" đảo Trường Sa của Trung Quốc và giờ lại kéo Hoa Kỳ cùng một số nước nhỏ khác nhằm đe dọa Trung Quốc.
Liên quan tới Philippines, bài báo nói Philppines tự coi họ là con muỗi và nói rằng họ không sợ con voi Trung Quốc.
Tác giả Long Tao viết: "Đúng là con voi không nên dẫm bẹp con muỗi nhưng con muỗi có nên đốt con voi hay không?
"Hơn nữa, liệu con muỗi có nên mời "con đại bàng già" tới để củng cố ý chí?
"Nhiều nước đang liên tục có những cuộc tập trận lớn và như vậy Trung Quốc có lý do hoàn toàn thích đáng để tấn công trả đũa".
Học giả Trung Quốc Long Tao
"Tôi cho rằng các nước đang xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.
"Nhiều nước đang liên tục có những cuộc tập trận lớn và như vậy Trung Quốc có lý do hoàn toàn thích đáng để tấn công trả đũa".
Học giả Long Tao nhắc tới hành động của Nga hồi năm 2008 ở Biển Caspi và nói hành động của các nước lớn có thể gây sốc tạm thời với hệ thống quốc tế nhưng về lâu dài có thể tạo sự ổn định trong khu vực và thúc đẩy hòa giải chiến lược.
Dầu lửa
Ông Long Tao nói Trung Quốc không nên học theo cách hành xử của Hoa Kỳ ở Iraq, Afghanistan hay Libya mà cần chiến đấu linh hoạt và rất có thể biến nó thành chiến dịch giáo dục đạo đức, dùng chiến thuật để thu phục các nước.
clip_image002
Học giả Long Tao nói chiến trận ở Biển Đông sẽ tạo ra những đảo lửa
Phân tích gia này nhận định Hoa Kỳ vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi cuộc chiến chống khủng bố và về cơ bản không thể bắt đầu cuộc chiến thứ hai ở Biển Nam Trung Hoa.
"Quan điểm cứng rắn của Hoa Kỳ chỉ là trò lừa phỉnh".
Chuyên gia tại Quỹ Năng lượng Trung Quốc cũng nói hiện có hơn 1.000 giếng dầu khí ở Biển Đông trong đó không có giếng nào của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, ông nói, hiện Nam Sa (Trường Sa) có bốn sân bay mà Trung Quốc không có sân bay nào.
Bài xã luận của Hoàn cầu thời báo nói rằng chưa cần biết ai thắng, ai thua, chiến trận trên Biển Đông sẽ tạo ra những hòn đảo lửa và các công ty dầu khí phương Tây sẽ phải rời đi.
Phần kết của bài báo nói Trung Quốc cần có quyết tâm cho một trận chiến lớn và thực sự chuẩn bị cho một cuộc chiến quy mô nhỏ vì như vậy "Trung Quốc đã cho những nước khác sự lựa chọn giữa hòa bình và chiến tranh".
Nguồn: bbc.co.uk

02/10/2011


Thời cơ tốt (!)?

Hà Văn Thịnh
image BBC, 15:56 GMT, 30.9.2011 có đăng bài viết trên Hoàn cầu (một trong những cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc) với chủ đề Dạy cho Việt Nam và Philippines một bài học đạo đức bằng vũ lực!
Khó có thể không đồng ý đánh giá chung của giới phân tích gia chính trị thế giới rằng sự ngạo mạn ỡm ờ trên đây là cảnh cáo rất rõ ràng, đồng thời mặc định sự tuyên chiến của một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi – bởi chẳng có ai kêu gọi thiết lập "đạo đức giữa các quốc gia" bằng vũ lực. Nói vuông, ngắn, rõ là một khi chiến tranh xảy ra, đạo đức truyền thống tất nhiên bị chà đạp. Vậy, tại sao những kẻ bá quyền ngông cuồng và mạo hiểm lại cho là có thể nói chuyện phải quấy (về đạo đức!) bằng sự chà đạp?

Sự ngông cuồng của nhà cầm quyền TQ dường như đang đẩy tới giới hạn của điểm chết của mọi sự bóc trần đen trắng như lâu nay họ vẫn cứ ve vãn và ai đó vẫn cứ "thích" dùng nước hến để nói về sự biến màu của hai cực trắng đen. Long Tao, tác giả của bài viết thuộc đại học Triết Giang cho rằng bây giờ là "thời cơ tốt để có hành động quân sự tại Nam Hải" (tức Biển Đông, theo cách nói đánh lận con đen của TQ), vì "đánh vài trận nhỏ là có thể thắng được trận đánh lớn", theo công thức "giết những con gà để dọa bầy khỉ" vì những con muỗi (ám chỉ Việt Nam và Philippines) không phải sợ voi (ám chỉ TQ) vì chúng nghĩ rằng "có nên mời những con 'đại bàng già' đến để củng cố ý chí" (sic)...
Những ngôn từ xấc xược và hung hãn đó nói lên cái gì?
Thứ nhất, nó phản ánh rằng quan điểm độc chiếm Trường Sa của TQ chưa và sẽ không bao giờ thay đổi. Vậy, liệu mọi sự "biết ơn sâu sắc" và mọi cố gắng nhằm duy trì cái xác chết của tình hữu nghị sẽ đi đến đâu nếu không muốn nói rằng một cái chết được báo trước về thảm họa dân tộc là có thể nhìn thấy được? Thứ hai, những con muỗi thì làm sao đốt thủng da voi? Kể cả "đại bàng già (ám chỉ Mỹ, Ấn Độ...) thì cũng chưa bao giờ làm gì được voi. Tại sao không chịu hiểu cái nguyên lý đơn sơ mà thâm độc, tàn bạo ấy? Đừng có mong gương vỡ lại lành vì đó là một trong những biến chứng đau khổ và xuẩn hại nhất của phép biện chứng. Thứ ba, tác giả Long Tao (tao là rồng đây) cho rằng sự cứng rắn của Hoa Kỳ (một trong những "đại bàng già") chỉ là trò lừa phỉnh (nhằm đánh nhụt ý chí của mọi sự phản kháng) và ngụ ý (ngu ý?) rất chắc chắn rằng do Trường Sa có 4 sân bay trong khi TQ chẳng có cái nào là điều không thể chấp nhận. Đây là cái cốt lõi (core) của lợi ích cốt lõi của mọi ý đồ bành trướng giúp chúng ta nhận chân ra rằng một khi TQ muốn cái họ chưa có thì chẳng chóng hay chầy, họ sẽ quyết làm cho bằng được, theo chỉ dẫn mục đích biện minh cho phương tiện.
Nguy cơ không những rất thật mà lại còn rất gần. Cần nhắc lại lịch sử một chút để ý thức rõ về sự tráo trở của chiến tranh, sự khó lường của chính trị thông qua chiến tranh: Ngày 7.12.1941, tại Washington, các quan chức Nhật Bản trao huy chương hòa bình và hữu nghị cho phía Mỹ đồng thời với việc tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) (!) Đó là một trong những sự bịp bợm lớn nhất của lịch sử ngoại giao thế giới. Hoa Kỳ đau đến mức 4 năm sau, họ đã gắn những huy chương ấy lên hai quả bom để thả xuống Hiroshima và Nagazaki (!). Ai bảo đảm rằng TQ sẽ không chơi lại cái trò tháu cáy ấy? Những "hữu nghị" và "kiên trì" đang giống như khói sóng tung lên bởi những đợt sóng ngầm cực lớn. Nếu không tỉnh táo nhìn thấy sóng ngầm mà chỉ lo hớp hồn theo bọt biển (Lý Chánh Trung, Sóng ngầm và bọt biển) thì e rằng khi hiểu ra đã là quá muộn....
Vấn đề bây giờ là ở chỗ quỹ thời gian chỉ còn rất ít. Những động thái về phát triển nội lực cần phải được tiến hành song song với sự vững chắc, an toàn ngoại giao. Sự nửa vời của mọi mối quan hệ là đầu mối tất nhiên của thất bại và tai họa. Cơ hội tốt của kẻ thù luôn đồng nghĩa với sự không thể tha thứ cho mọi tính toan u mê, xuẩn ngốc của tất cả chúng ta. Muỗi phải mừng vui vì sinh nhật của voi cho dù chỉ một tháng trước đó voi chẳng thèm biết là muỗi cũng có ngày sinh nhật! Chẳng lẽ đó không là một lời cảnh báo hay sao? Hãy nhớ rằng từ năm 1959 đến 1969, chưa bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng quốc khánh TQ. Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hồ Chủ tịch nhìn thấy rõ mọi sự đen tối của mưu đồ, tại sao chúng ta không học theo tấm gương đạo đức và tư tưởng của Người? Không có gì cay đắng và khủng khiếp hơn khi TQ biến "thời cơ tốt" của nó thành hiện thực, trong khi chúng ta cứ chờ - mong con voi (con vật lớn nhất của hành tinh – sự ngạo mạn tột cùng về sức mạnh của TQ) thương xót cho số phận của muỗi! Tất nhiên, Việt Nam chưa bao giờ là muỗi và TQ cũng đã chưa bao giờ – và không bao giờ có thể là voi. Gò Đống Đa hình như đang chứa trong lòng nó hàng vạn xác voi giấy ngu xuẩn, ngông cuồng?
Huế, 1.10.2011.
H.V.T.



From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Thursday, 29 September 2011 8:19 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM (2)

 
Tài liệu cho thấy rất rõ Hồ Chí Minh phục vụ CS quốc tế

Chính vì điểm then chốt này, mà sự khác biệt giữa cánh Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, cùng nhóm Lê Duẩn & Lê Đức Thọ khác biệt, thậm chí mâu thuẫn.

0o0

Hai cán bộ CSVN Lê Duẩn & Lê Đức Thọ đặt vấn đề quốc gia là chính. Trong khi đó Hồ luôn coi Stalin và Mao là hai ađ`n anh lớn, và Karl Marx cùng Lenin là hai ông tổ

Ông ta đã xác nhận khi viết di chúc và cho biết sẽ đi gặp Karl Marx cùng Lenin. Trung thành sau khi chết

Ngoài ra, chính Hồ Chí Minh đã viết:

"Bác đưa 1 nước qua nô lệ
 Tôi dẫn 5 châu đến đại đồng ..."

Rõ ràng, ông ta đã cho biết sự nghiệp và lý tưởng của ổng còn vượt qua đức Trần Hưng Đạo, chỉ ở tầm mức quốc gia, còn ông ta đã qua tầm mức thế giới

Rõ ràng như vậy đó

Riêng Võ Nguyên Giáp, ông ta cũng luôn chứng tỏ tính quốc tế của mình.

0o0

Nhiều người trong nhóm bauxite Việt Nam còn tôn trọng Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cho thấy họ chỉ thay đổi hình tượng (hiện tượng), nhưng giữ bản chất. Website của họ đăng hình ông Giáp như 1 lãnh tụ. Khoảng 1 triệu người truy nhập website này cho thấy ảnh hưởng của họ

Nhiều người trong nhóm bauxite Việt Nam  chống Trung Cộng chỉ vì họ không nằm trong giới cầm quyền, đang bị thất thế, vì phe tướng Giáp bị phe tướng Vịnh kềm.

Nhưng cũng chính nhóm này đã im lặng trong suốt giai đoạn nhà nước CSVN đàn áp dân chúng, CCRĐ,Trăm Hoa Đua Nở, cải tạo ....

Cộng tác với nhóm bauxite là Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên đồ tể (ít nhất là nằm ở cấp lý thuyết, tức đầu lãnh) của xứ Huế, cùng nhiều cán bộ đàn em của tướng Giáp, người giữ bộ Nội Vụ, vào giai đoạn Việt Minh  đã "thanh toán" đồng bào, vì họ không theo cộng sản, gán vào cho họ tội Việt Gian, đầy oan khuất. (Trong đó có Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Trương Tử Anh ...).

0o0

Lịch sử sẽ không ngừng nghỉ đưa ra ánh sáng của sự thật.

Và quả báo lịch sử cũng không ngừng nghỉ thắt chặt vòng dây nghiệp chướng rành rành

0o0

Đừng lầm lẫn những người bolcheviks hay neo-bolcheviks với những con người bị CSVN lừa.

Hồ Chí Minh Nguyễn Tất Thành là một đảng viên đảng cộng sản quốc tế, trung thành đến chết với lý tưởng của ông ta

Võ Nguyên Giáp là cánh tay mặt mà Hồ đã giao cho giữ bộ nội vụ khi ông ta qua Pháp.

0o0

Thay nhóm Nguyễn Tấn Dũng bằng nhóm bauxite VN hay đàn em của họ, thì còn mau đưa đất nước vào chỗ tối tăm giáo điều hơn nữa. Vì nếu Giáp trẻ hơn và nắm quân đội thì chưa chắc đã không có thanh toán nội bộ

0o0

Bauxite là 1 sai lầm nguy hiểm

Nhưng nhóm bauxite VN không phải chỉ vì muốn ngăn cản việc khai thác bauxite, họ chính là nhóm chính trị gia cộng sản, đàn em của tướng Giáp, mượn cớ để bành trướng thế lực, vì đang bị lép vế.

Họ không phải là những Mẹ Nấm, Điếu Cày, Nguyễn Quang A.... Những người này yêu nước trong sáng hơn.


0o0

Tương lai của dân Việt phải là 1 nền dân chủ sáng tỏ, chứ không phải lại là 1 vật để các phe phái đặt trên chiếu bạc.

0o0

"Lão thành cách mạng" đồng nghĩa là đã cộng tác với đảng CSVN lâu năm, và tham dự vào hầu hết những tội ác của đảng CSVN


D~

Bài sau do 1 cựu đảng viên cao cấp đảng CSVN là ông Nguyễn Minh Cần viết.

http://hoangvan.net/vnchf/VC/DCSVN6.html




Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (6)

( Nguyễn Minh Cần )

II. Ðôi điều về Đảng Cộng Sản Việt Nam (ÐCSVN)

Ở đây, chúng tôi không trình bày lịch sử ÐCSVN, mà chỉ phác qua đôi điều nhận xét về ÐCSVN.

1. Khách quan mà xét, trong sự xuất hiện của Ðảng cộng sản Việt Nam/Ðảng cộng sản Ðông Dương (xin viết gọn là ÐCSVN) trên sân khấu chính trị nước ta, những yếu tố bên ngoài đóng vai trò chính yếu. Cố nhiên, không có những yếu tố trong nước - tình hình kinh tế, xã hội, đấu tranh của dân chúng - thì không thể xuất hiện được đảng, nhưng phải nói thẳng rằng khi lập ÐCSVN và trong buổi đầu tồn tại của đảng, những yếu tố bên ngoài thực tế đã đóng vai trò chủ yếu. Cả ý thức hệ, tức là tư tưởng, chủ nghĩa, cả đường lối cụ thể, tức là chiến lược, sách lược, cả các quan điểm về ÐCS... đều du nhập từ nước ngoài. Các chỉ thị cụ thể về xây dựng đảng đều được đề ra bởi người nước ngoài. Tiền tài, phương tiện vật chất ... đều do nước ngoài cung cấp. Thậm chí cán bộ cũng do nước ngoài tuyển lựa, nuôi dưỡng, đào tạo rồi đưa về Việt Nam. Ðó là một thực tế kéo dài trong nhiều năm tồn tại của ÐCSVN. Ðể minh họa điều vừa nói, xin nêu vài tài liệu cụ thể. Trong tác phẩm "Việc đào tạo những nhà cách mạng Việt Nam trong các trường đại học của nước Nga xô-viết trong những năm 20-30" của nhà Việt học A. Sokolov, có đưa ra con số 67 người Việt Nam đã được nước Nga xô-viết đào tạo từ năm 1925 đến khoảng năm 1936 (trong bài của A. Sokolov tính đến năm 1938, đó là trường hợp của Lin, hay Linov, tức là Nguyễn Aùi Quốc, nhưng điều đó chỉ là trên giấy tờ mà thôi, thực tế hồi đó, Lin, hay Linov không còn học ở Moskva nữa). Con số này tác giả đã sưu tập rất công phu khi nghiên cứu ở kho lưu trữ của Cộng Sản Quốc Tế, cộng số học viên Việt Nam đến học ở Trường đại học cộng sản của những người lao động phương Ðông (tiếng Nga viết tắt là KUTV), Trường quốc tế Lenin (MLSH) và Học viện nghiên cứu khoa học các vấn đề dân tộc và thuộc địa (NIINKP). Con số này chắc chắn là chưa đầy đủ, vì tác giả không thể biết hết các bí danh học viên Việt Nam đã dùng, không biết được số học viên các trường đặc biệt rất bí mật của ngành quân sự và mật vụ, cũng như có một số người Ðông Dương do ĐCS Pháp cử đến học ở các trường nói trên lại mang tên Pháp nên không thể đoán được (xem sách: „Nước Việt Nam truyền thống", Quyển 2, Moskva, 1996, tr. 143-177).

Còn để bạn đọc biết rõ phần nào nguồn tài chính QTCS đã chi ra cho việc chuẩn bị thành lập ÐCSVN, chúng tôi chỉ xin dẫn một trong nhiều tài liệu về vấn đề này còn lưu trữ tại RSKHIDNI. Ðó là biên bản cuộc họp ngày 3.3.1927 tại Canton (Quảng Châu) của ba người là Doriot, Voline (đại diện cho Phân bộ) và Lee (ghi theo biên bản, có lẽ đọc là Lý, hồi đó Lý, hay Lý Thụy, làm việc cho Borodin - trong văn bản tiếng Nga có chú thêm: Nguyễn Aùi Quấc) để bàn về vấn đề: chính trị, tổ chức và ngân sách. Biên bản có ghi rõ: "giao cho Doriot viết tuyên ngôn gửi thanh niên Ðông Dương, còn Lee làm dự chi để gửi lên QTCS (Cộng Sản Quốc Tế)". Ðồng thời ở đây cũng kèm luôn "tờ trình" (RSKHIDNI, Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 555, tr. 5) về các dự chi trong năm:

"a/ đưa đến Canton 100 tuyên truyền viên: 200 $ X 100 người = 20 000 $ (đô la Trung Quốc);
b/ tối thiểu 10 tuyên truyền viên tự do (chúng tôi không hiểu chữ „tự do" ở đây nghĩa là gì - NMC): 150 $ X 10 = 1 500 $; c/ nhà in, giấy, việc in ấn = 1 500 $;
c/ chi phí về tổ chức = 7000 $;
d/ đưa 100 người đến học viện quân sự Wampoa (Hoàng Phố) = 5 000 $;
e/ chi phí bất thường = 5 000 $; tổng cộng = 40 000 $ (đô la Trung Quốc).

Chắc cái dự chi này về sau không được thực hiện tất cả, vì phái bộ Borodin quá lợi dụng sự thân thiện của Quốc Dân Ðảng Trung Quốc đã mở rộng hoạt động mạnh mẽ để gieo cấy các tổ chức cộng sản và gián điệp xô-viết vào các nước châu Á và ngay cả ở Trung Quốc, nên cuối cùng cả phái bộ đã bị chính phủ Trung Hoa Dân quốc trục xuất hồi cuối năm 1927.

Cố nhiên, ngày nay, ban lãnh đạo ÐCSVN không thích nói đến những điều này, họ muốn "đề cao" tính chất "độc lập" của đảng. Nhưng "độc lập" như thế nào được, khi chính Nguyễn Ái Quốc đã nói trong bài giảng cho cán bộ hồi năm 1926: "... Ðệ Tam Quốc tế là một ÐCS thế giới. Các đảng các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế thì các đảng không được làm" (xem: Hồ Chí Minh. T.1)? Việc ra đời của ÐCSVN hồi năm 1930 cũng là theo chỉ thị QTCS. Sau khi đại hội „Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội" (1929) xin gia nhập QTCS, BCH QTCS có gửi thư trả lời, phê phán những sai lầm hay thiếu sót trong đường lối cũng như trong điều lệ và chỉ thị cụ thể về cách thức xây dựng ÐCS. Sau đó, QTCS còn ra một chỉ thị nữa vào ngày 27.10.1929 „về việc thành lập một ÐCS Ðông Dương" với những hướng dẫn cụ thể về nhiều mă.t. Những chỉ thị này kèm theo những sự giúp đỡ về vật chất và cán bộ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của ÐCS trên bán đảo Ðông Dương hoàn toàn theo đúng tiêu chuẩn của QTCS.

Không thể phủ nhận rằng nhiều người Việt Nam đã đến với QTCS vì lòng yêu nước. Nhưng khi họ đã tiếp thụ say mê chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin thì chủ nghĩa quốc tế vô sản (cụ thể là giành chuyên chính vô sản trên phạm vi thế giới) đã trở thành mục tiêu tối thượng của họ, và họ theo sách lược của Lenin-Stalin khéo léo lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc để cướp chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản trên đất nước mình nhằm tiến tới mục tiêu tối thượng của họ và QTCS. Cho nên việc theo "mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế" là điều dĩ nhiên đối với họ. Nói chung, những người cộng sản trên thế giới đều coi việc giành chuyên chính vô sản ở nước mình, cũng như mở rộng chuyên chính đó ra các nước khác đều là "làm nghĩa vụ quốc tế".

2. ÐCSVN ra đời hồi năm 1930 đúng vào lúc chủ nghĩa Stalin đã hoàn toàn thống trị ở Liên Xô và trong toàn bộ PTCSQT, do đó từ thời ấu thơ đã tiếp thụ sâu đậm lý luận và thực hành chẳng những của chủ nghĩa Lenin, mà cả của chủ nghĩa Stalin. Chủ nghĩa Lenin mà ÐCSVN tiếp thụ từ đầu là qua sự lý giải, diễn dịch của Stalin, qua các sách của Stalin, như "Nguyên lý chủ nghĩa Lenin" (1924), "Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin" (1926). Vì thế có thể nói không sai rằng ÐCSVN tiếp thụ chủ yếu là chủ nghĩa Stalin. Theo quyết định của QTCS, trong thời gian đầu khá dài, hai ÐCS Trung Quốc và Pháp được giao nhiệm vụ "đỡ đầu" ÐCSVN. Vì vậy, ÐCSVN còn chịu thêm ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của chủ nghĩa Mao. Việc Nguyễn Ái Quốc vốn là đảng viên của ÐCSTQ, từng phục vụ trong Hồng quân Trung Quốc, và việc Stalin thỏa thuận với Mao Trạch Ðông hồi năm 1950 giao cho Trung Quốc phụ trách Việt Nam càng làm sâu đậm thêm ảnh hưởng chủ nghĩa Mao đối với Việt Nam.

Cái tinh thần sùng bái Stalin và Mao Trạch Ðông trong ÐCSVN đã có một thời gian dài rất nặng, chủ yếu là do các lãnh tụ và bộ máy tuyên truyền của đảng gieo rắc cho cán bộ, đảng viên, rồi truyền ra dân chúng. Chính kẻ viết bài này đã nhiều lần chứng kiến hiện tượng đó. Chẳng hạn, hồi năm 1950, lúc còn làm ủy viên Thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên, đã được TƯ ÐCS (lúc bấy giờ là ÐCS Ðông Dương) triệu tập ra chiến khu Việt Bắc dự hội nghị cán bộ để chuẩn bị cho đại hội 2 của đảng vào năm sau. Tại hội nghị đó, Hồ Chí Minh đã giải thích về chủ trương đổi tên ÐCS Ðông Dương thành Ðảng lao động Việt Nam. Sau khi giải thích lợi ích của việc đổi tên đảng là để đảng dễ dàng gần gũi, lôi kéo nhiều tầng lớp dân chúng, nhất là các tầng lớp trên, cả miền Bắc lẫn miền Nam đang còn nghi ngại đảng, ông giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm Craven „A" của ông lên về phía có nhãn hiệu thuốc và nói: „Ðây là Ðảng cộng sản", rồi ông quay phía trong nắp không có nhãn hiệu và nói: „Còn đây là Ðảng lao động". Ông lại lớn tiếng hỏi: „Thế thì các cô, các chú thấy có khác gì nhau không?" Cả hội trường đồng thanh đáp vang: „Dạ không ạ!". Ông nghiêm nghị nói: „Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Ðông rồi (chúng tôi được biết hồi đó ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được". Cả hội trường vỗ tay rầm rầm. Tại đại hội 2 của đảng (1951), Hồ Chí Minh cũng đã có những lời tuyên bố tương tự. „Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được". Bạn đọc có thấy không, cái đó là cái gì, nếu không phải là sự sùng bái Stalin và Mao Trạch Ðông đến độ mù quáng? Ðây là một chuyện thật 100%, những người cùng thời với chúng tôi đều biết rõ và nhớ kỹ những chuyện như thế, tiếc rằng không mấy ai chịu viết sự thật lên giấy trắng mực đen!

Ðể chứng minh bằng „giấy trắng mực đen" là Hồ Chí Minh đã hết sức đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như thế nào, chúng tôi đành phải dẫn ra vài câu trong "Tuyển Tập Hồ Chí Minh" xuất bản bằng tiếng Pháp hồi năm 1962 (chúng tôi dùng chữ "đành phải" vì lần xuất bản này xảy ra sáu năm sau đại hội 20 ÐCSLX, là đại hội đã vạch trần những tội ác của Stalin, nên nhiều câu ông Hồ ca ngợi Stalin có thể đã bị xóa bỏ từ lâu rồi): "La révolution vietnamienne doit apprendre et a beaucoup appris de l'expérience de la révolution chinoise. L'expérience de la révolution chinoise et la pensée de Mao Tsé Toung nous a permis de mieux comprendre la doctrine de Marx-Engels-Lénine-Staline. Les révolutionnaires vietnamiens doivent en garder le souvenir et se montrer reconnaissants" - Cách mạng Việt Nam phải học và đã học nhiều kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc. Kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Ðông đã giúp cho chúng tôi hiểu thấu đáo hơn học thuyết của Marx-Engels-Lenin-Stalin. Những người cách mạng Việt Nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao Trạch Ðông về sự cống hiến to lớn đó (xem: Hồ Chí Minh. Oeuvres Choisies, t.2, Ele, Hanoi, 1962, p. 221-222). Như vậy là những người cộng sản Việt Nam lĩnh hội chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin qua sự lý giải và thực hành của Mao Trạch Ðông, qua tư tưởng Mao Trạch Ðông. Tại đại hội 2 ÐCSVN (2.1951), đại hội đã quyết định rằng cơ sở tư tưởng của Ðảng lao động Việt Nam (tức là ÐCSVN) là chủ nghĩa Marx-Engels-Lenin-Stalin và tư tưởng Mao Trạch Ðông. Cũng xin nói thêm, đến năm 1986, khi xuất bản „Toàn Tập Hồ Chí Minh" bằng tiếng Việt - tức là sau khi ÐCSVN và ÐCSTQ đã mâu thuẫn nhau cao độ, thậm chí đem quân đánh nhau dữ dội ở biên giới Viê.t-Trung - thì trong bài này „người ta" đã cố tình cắt bỏ một đoạn, trong đó có những câu vừa nói trên (xem: Hồ Chí Minh. Toàn Tâ.p. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, t.6, tr. 12)! Và đây chẳng phải là trường hợp duy nhất của lối làm việc không trung thực khi xuất bản „Toàn Tập Hồ Chí Minh".

Trong „văn học nghệ thuật cung đình" Việt Nam, một thời gian dài đã vang lên bao nhiêu bài thơ, bài ca tôn vinh Stalin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh như những bậc thánh sống. Tố Hữu, người cai quản văn nghệ „xã hội chủ nghĩa" một thời, là nhà thơ chuyên làm những bài tụng ca các vị thánh sống đó:

..."Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Aú Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười"...

..."Hoan hô Stalin!
Ðờiđời câyđại thọ
Rợp bóng mát hòa bình
Ðứngđầu sóng ngọn gió!
Hoan hô Hồ Chí Minh!
Cây hảiđăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến!"...
..."Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếngđầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoàiđồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ôngđã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalinơi, Ông Stalinơi!
Hởiơi, Ông mất! Ðất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con, yêu nước, yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!"...

Còn Ðỗ Nhuận, tổng thư ký Hội âm nhạc, hết lời ca tụng các „lãnh tụ" kính yêu trong ca khúc của mình:

..."Việt Nam Trung Hoa,
Núi liền núi, sông liền sông,
Chung một biển Ðông,
Mối tình hữu nghị sáng như vừng Ðông.
Anh ở bên ấy, tôi ở bênđây,
Sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy rộn,
....
Chung một ý, chung một lòng,
Ðường cách mạng thắm màu cờ hồng
A! A...
Nhân dân ta ca muôn năm
Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông!"...

Tóm lại, trong một thời gian rất dài, trong thời kỳ bí mật cũng như sau khi cướp được chính quyền, Stalin và Mao Trạch Ðông là những mặt trời, những ngôi sao, những ngọn cờ vẫy gọi ÐCSVN, còn ÐCSLX và ÐCSTQ thật sự là mẫu mực cho ÐCSVN rập khuôn cả về tư tưởng, cả về lề lối sinh hoạt lẫn về kiểu cách tổ chức bộ máy đảng-nhà nước...

3. ÐCSVN ø vốn là một phân bộ của QTCS, một bộ phận của PTCSQT. Mà QTCS xây dựng trên những nguyên tắc tập trung dân chủ, cho nên ÐCSVN, cũng như tất cả các ÐCS khác, phải tuyệt đối phục tùng một trung tâm, trung tâm đó về hình thức là BCH QTCS, về thực chất là tập đoàn thống trị ÐCSLX. Ðúng như Nguyễn Ái Quốc đã nói: „Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Ðệ Tam Quốc tế thì các đảng không được làm". Ðiều này nói lên sự lệ thuộc chặt chẽ của ÐCSVN vào tập đoàn thống trị ÐCSLX (và ÐCSTQ) trong một thời gian dài. Trong thời gian đó, sự sùng bái cá nhân Stalin và Mao Trạch Ðông trong ÐCSVN làm cho sự lệ thuộc này càng trầm trọng thêm.




















From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
To: "Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com" <Exryu-ww-Forum@yahoogroups.com>; "exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com" <exryu-ww-vannghe@yahoogroups.com>
Sent: Wednesday, 28 September 2011 5:38 PM
Subject: [Exryu-ww-Forum] Chư hầu đến nô lệ ..., từ thời HCM

 


http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-cn-use-soft-power-i-vn-ml-09182011104401.html?searchterm=None

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-cn-use-soft-power-i-vn-prt2-09192011065830.html?searchterm=None

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-cn-use-soft-power-i-vn-prt3-0920

TQ khống chế VN trên lĩnh vực kinh tế

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-09-18
Sách lược của Trung Quốc nhằm kiểm soát chặt chẽ Việt Nam trong ba lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá là khá lộ liễu.

AFP photo
Khách du lịch Trung Quốc đi bộ ở tiền sảnh Silver Shores International Resort tại Đà Nẵng hôm 15/2/2011.
Những yếu tố khách quan cho thấy họ đã ngấm ngầm khống chế Việt Nam từ nhiều năm trước và nay là thời điểm Bắc kinh giở con bài tẩy của mình để đối phương thấy tham vọng của họ đối với cả khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.
Mặc Lâm tổng hợp các sự kiện quan trọng trong ba lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá mà Trung Quốc đã và đang ra tay rất hiệu quả tại Việt Nam. Bài đầu tiên nói về kinh tế cùng những mánh khoé mà Trung Quốc đã áp dụng bấy lâu.

Tràn ngập hàng Trung Quốc

Nếu có dịp về vùng biên giới phía Bắc một lần du khách sẽ nảy sinh nhiều câu hỏi khi tiếp xúc với các chợ biên giới tại vùng cửa khẩu Tân Thanh. Hình ảnh các chuyến hàng xuất phát từ biên giới phía bắc chạy nườm nượp sang Việt Nam mà không đóng bất cứ khoản thuế nào khi nhập cảnh là câu hỏi đầu tiên về chính sách tiểu ngạch đã từ lâu như một lỗ hổng khó thấy hậu quả tại các vùng biên giới.
Cửa khẩu Tân Thanh thật ra quá nhỏ nếu so với những trang thiết bị mà doanh nghiệp Việt Nam mỗi năm chạy sang Trung Quốc lục lọi để mua về lắp ráp vào các nhà máy thủ công của mình, thì con số lại càng đáng lo hơn. Chỉ riêng năm ngoái, Việt Nam đã nhập khẩu từ Trung Quốc 20 tỷ trong đó nhập siêu lên đến gần 13 tỷ đô la. Số lượng máy móc đã qua sử dụng được nhập từ Trung Quốc lên đến gần 3 tỷ và các sản phẩm nguyên liệu chiếm hầu hết trong tổng số nhập siêu của năm 2010.
Theo nguyên tắc thương trường thì sản phẩm nào đạt yêu cầu với giá thành hạ thì sản phẩm đó được ưa chuộng. Tuy nhiên với Trung Quốc, chính sách bán hàng cực rẻ bất cần tiêu chuẩn chất lượng, hay chất lượng được phù phép thành cao đã được áp dụng triệt để. Giá càng rẻ thì chất lượng sản phẩm càng ít nhưng những doanh nhân ham lợi nhuận trước mắt sẽ mắc vào tấm lưới vô hình này.
Nhập siêu gấp đôi trong giao dịch với Trung Quốc đang là mối họa khôn lường trước mắt đối với nền kinh tế Việt Nam. Những sản phẩm mà Việt Nam gia công chủ yếu nhập nguyên liệu từ Trung Quốc do đó cái thòng lọng mà Việt Nam tự thắt vào cổ mình đang được điều khiển từ bên kia biên giới. Chỉ cần giá nguyên liệu tăng thêm 10 hay 15% là công nhân Việt Nam hết đường sống. Các khu công nghiệp gia công kể như đóng cửa và sự chao đảo kinh tế lập tức xảy ra.
TS Lê Đăng Doanh nguyên tư vấn cho Bộ Kế hoạch Đầu tư, cũng là người đã lên tiếng cảnh báo mối họa Trung Quốc từ những năm đầu thập niên 90 nay vẫn cho rằng mối họa đó chẳng những không dứt mà có cơ tăng thêm bởi các dấu hiệu lệ thuộc kinh tế ngày càng sâu hơn với Trung Quốc, ông cho biết:
Nếu trong những năm 2000-2001 quan hệ thương mại giữa hai bên là cân bằng thì từ năm 2005 trở đi nhập siêu ngày càng tăng lên và đến bây giờ thì nhập siêu của Trung Quốc lớn nhất mà Việt Nam chịu trong quan hệ thương mại song phương.
TS Lê Đăng Doanh
"Tình hình nhập siêu giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng trở nên trầm trọng. Nếu trong những năm 2000-2001 quan hệ thương mại giữa hai bên là cân bằng thì từ năm 2005 trở đi nhập siêu ngày càng tăng lên và đến bây giờ thì nhập siêu của Trung Quốc lớn nhất mà Việt Nam chịu trong quan hệ thương mại song phương. Ngoài khía cạnh nhập siêu về mặt số lượng thì nhập siêu về mặt chất lượng kết cấu của mặt hàng cũng rất là nghiêm trọng.
Quan hệ thuơng mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trở thành quan hệ bắc ngang, tức là Việt Nam xuất phần lớn nông lâm thuỷ sản, các nguyên liệu thô sang Trung Quốc rồi nhập các sản phẩm trang thiết bị công nghiệp, các sản phẩm máy móc về. Điển hình là Việt Nam xuất cao su sang Trung Quốc rồi nhập vỏ và ruột xe. Tình hình này không những làm các nhà chuyên môn mà trong đông đảo nhân dân rất lấy làm lo ngại."

Phá hoại về tài chánh

Người dân hàng ngày ra chợ đều thấy hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam. Từ một vật nhỏ nhất như cây đinh, sợi dây buộc đồ tới những vật thông dụng trong gia đình như hàng kim khí điện máy, sản phẩm trong nhà bếp, nhà tắm phòng ăn...tất cả đều là hàng Trung Quốc.
000_Hkg2105338-250.jpg
Một cửa hàng bán hàng gia dụng TQ tại cửa khẩu Tân Thanh. AFP photo
Không dừng lại ở đó, rau quả thịt thà và hàng ngàn loại thực phẩm khác đều đến từ Trung Quốc. Một xứ sở nghèo như Việt Nam mà lại không cung cấp nổi cho dân chúng của mình các loại hàng hóa tự cấp trong nước thì thử hỏi nền kinh tế ấy dựa vào đâu để phát triển?
Nếu chỉ do tính toán lợi nhuận kinh tế thì Trung Quốc cũng sẽ như các nước tư bản khác, khai thác tối đa việc xuất khẩu là mũi nhọn tiến lên con đường phát triển. Tuy nhiên Trung Quốc còn lợi dụng vị thế của mình để thực hiện những đòn phép khác phá hoại kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc hơn vào họ.
Những câu chuyện liên tiếp xảy ra từ việc mua móng trâu bò còn sống để triệt tiêu sức sản xuất cho đến phá hoại danh tiếng sản phẩm Việt Nam bằng nhiều cách trong đó có việc bỏ tiền ra yêu cầu nông dân Việt Nam tự tay hủy diệt sản phẩm của mình. Qua lời kể của TS Lê Đăng Doanh người Việt có thể vỡ lẽ ra tại sao Trung Quốc  lại chủ trương như thế:
"Một điều hiển nhiên được chứng minh nhiều lần là việc tiền giả được in từ Trung Quốc mang vào Việt Nam và chúng ta rất nhiều lần lên tiếng với Trung Quốc nhưng cho đến nay mọi sự vẫn tiếp diễn. Hai nữa là việc thương nhân Trung Quốc thu mua móng trâu bò ở các tỉnh biên giới. Móng được mua rồi thì trâu bò không còn cày bừa được nữa.
Họ còn mua rễ các cây thuốc và vừa rồi thương nhân Trung Quốc mua giá cao các loại chè của Việt Nam sau đó yêu cầu người nông dân Việt Nam cho thêm bùn và dầu nhớt vào chè. Số chè này mang về Trung Quốc và họ tập trung lại và công bố rằng chè của Việt Nam bẩn, không sử dụng được và họ tổ chức một buổi tiêu huỷ rầm rộ lá chè mua từ Việt Nam về."
Trung Quốc đang bỏ tiền ra rất nhiều để khống chế kinh tế Việt Nam dưới nhiều hình thức, trúng những gói thầu giá rẻ chẳng hạn. Nhiều chuyên gia nghi ngờ rằng với giá thành trúng thầu như thế các công ty thắng thầu của Trung Quốc không thể có lời nếu không được tài trợ kín từ chính phủ Trung Quốc. Hơn 90% các nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam đều được giao cho nhà thầu Trung Quốc. Có dự án Trung Quốc bỏ tiền cho vay hơn 80% với lãi suất rất rẻ. Miếng mồi lãi suất này bây giờ là một nguồn lợi to lớn nhưng khi có việc xảy ra thì liệu cái lợi này có đáng hay không. Một vụ nổ nhà máy điện hàng loạt nếu xảy ra chiến tranh chẳng hạn?
Một điều hiển nhiên được chứng minh nhiều lần là việc tiền giả được in từ Trung Quốc mang vào Việt Nam và chúng ta rất nhiều lần lên tiếng với Trung Quốc nhưng cho đến nay mọi sự vẫn tiếp diễn.
TS Lê Đăng Doanh
Chuyên gia tư vấn tài chánh Bùi Kiến Thành cho biết nhận xét của ông về vấn đề này:
"Hiện giờ Trung Quốc có lợi thế là có thể cho vay dài hạn với lợi suất tương đối thấp nhưng cuối cùng chúng ta nhận công trình trở lại với chất lượng thấp thì vấn đề tài chính như thế chắc gì có lợi cho Việt Nam. Đây là vấn đề mà các lãnh đạo của Việt Nam cần phải tính toán lại."
Hầu hết tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam cho tới nay đều nằm trong tay thương nhân Trung Quốc. Từ than đến khoáng sản, bauxite mọi thứ quý giá đều bán sang Trung Quốc với giá rẻ tương đương như họ bán hàng sang Việt Nam. Tuy nhiên hàng Việt Nam thì không cần phải xem xét vì nó là nguyên liệu thô, còn Trung Quốc xuất sang Việt Nam máy móc đã qua sử dụng có nghĩa là chất lượng rất đáng bàn cãi.

Đăng ký độc quyền thương hiệu VN

Mới đây Bộ Kế Hoạch Đầu tư vừa ra một văn bản cho biết chính Trung Quốc đã loại khỏi danh mục hơn 2.500 loại máy móc không được sử dụng trong nước, và một điều chắc chắn rằng doanh nhân Việt Nam sẽ đánh hơi món nào trong 2.500 thứ bị cấm ấy còn xài được thì họ lại lập tức chạy sang Trung Quốc mang về.
034_898537-250.jpg
Một phụ nữ Việt với gánh hàng rong toàn hàng Trung Quốc. Nonstopphoto
Tầm vĩ mô thì như thế còn ở các hoạt động thấp hơn thì sao? Câu trả lời là chưa bao giờ Trung Quốc ngừng tấn công Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế.
Các kinh nghiệm về mua bán với Trung Quốc vẫn làm cho nông dân Việt Nam kinh hãi. Mới đây nhất là hàng ngàn mẫu sắn tại huyện Hương hóa bị thương lái Trung Quốc lừa người dân trồng rồi bỏ chạy về nước. Tại Bình Thuận với hàng ngàn héc ta thanh long phải cho bò ăn thay cỏ.
Thâm độc hơn, Trung Quốc còn khuyến khích thương nhân nước họ ăn trộm địa lý thương hiệu của Việt Nam rồi đăng ký chỉ dẫn địa lý làm của riêng họ.
Một doanh nghiệp ở Quảng Đông Trung Quốc đã đăng ký độc quyền trong 10 năm 2 nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột, mặc dầu đây là chỉ dẫn địa lý mà Tỉnh Đắc Lắc được bảo hộ quốc gia từ năm 2005. Sau vụ cà phê Buôn Mê Thuột là nứơc mắm Việt Hương tại Hongkong đăng ký thương hiệu Phú Quốc cho thấy các bước tiến phá hoại sản phẩm Việt Nam được Trung Quốc thực hiện hết sức nghiêm túc và hiệu quả.
Luật sư Lê Quang Vinh đặc trách bộ phận sở hữu trí tuệ của công ty Bross & Partner cho biết sự vi phạm của Trung Quốc xét về mặt lý thuyết như sau:
"Vấn đề ở đây là hành vi đăng ký như thế dưới góc độ thương mại mà nói thì đấy là hành vi xấu người ta hay gọi là "Bad faith" (Không trung thực, gian trá). Tức là người ta lợi dụng qui định của pháp luật Trung Quốc về xác lập quyền sở hữu công nghiệp trong đó có quyền đối với nhãn hiệu để nộp đơn đăng ký."
Vấn đề ở đây là hành vi đăng ký như thế dưới góc độ thương mại mà nói thì đấy là hành vi xấu người ta hay gọi là "Bad faith" (Không trung thực, gian trá).
Luật sư Lê Quang Vinh
Chính sách của các nước phương Tây là luôn giúp cho những nước nghèo bằng các khoản viện trợ hướng nghiệp, hay giúp vay với lãi suất rất nhỏ để nâng họ lên cùng nhau phát triển. Riêng với Trung Quốc tuy được tiếng là đang nắm giữ một số lớn trái phiếu của chính phủ Mỹ và là nền kinh tế hạng nhì trên thế giới nhưng hàng năm vẫn ngửa tay nhận hơn 250 triệu Mỹ kim viện trợ từ Washington cho Bắc kinh phát triển cộng đồng! Cách nhận tiền không mấy tốt đẹp này đã bị thượng nghị sĩ Jim Webb lên tiếng đòi quốc hội Mỹ bãi bỏ khoản tiền mà người dân Mỹ đóng thuế để giúp cho ông chủ nợ Trung Quốc xấu bụng và không mấy rộng rãi.
Câu chuyện hào phóng từ nước Mỹ có giúp gì được cho kinh nghiệm nghèo khó của Việt Nam hay không?
Quý vị vừa theo dõi bài đầu tiên chủ đề kinh tế trong loạt bài "Trung Quốc khống chế Việt Nam như thế nào?" mời quý vị theo dõi tiếp phần hai với chủ đề chính trị cũng do Mặc Lâm thực hiện trong kỳ tiếp theo.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.




quê hương nơi gửi Đà nẵng :


19/09/2011 02:10

0o0


Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực Chính trị

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-09-19
Trong bài trước chúng tôi đã ghi lại những nét chính Trung Quốc muốn kiểm soát và thao túng nền kinh tế Việt Nam như thế nào. Tiếp tục loạt bài, hôm nay xin được chia sẻ những yếu tố chính trị mà Trung Quốc đã dùng để áp lực lên hệ thống cầm quyền Việt Nam nhằm phục vụ kế sách bá quyền đại hán của họ. Mặc Lâm tổng hợp các sự kiện quan trọng đã xảy ra trong thời gian gần đây nhằm phác thảo hình ảnh tổng thể những diễn tiến rất nguy hiểm cho nền độc lập của Việt Nam.
Sau khi cuộc chiến biên giới năm 1979 kết thúc với nỗi căm phẫn tột cùng vì bị mất mát và phá hoại từ con người tới cơ sở vật chất, không ai tin rằng chỉ 12 năm sau, năm 1991 cuộc chiến ấy đã được đặt sang một bên để một lần nữa Việt Nam mở rộng vòng tay thu nhận 16 chữ vàng từ người mới đánh giết mình hôm qua để yên sống theo kinh nghiệm lịch sử của hàng ngàn năm về trước.

Đồng sàng dị mộng

Tuy nhiên lần này khác. Sự sụp đổ của chế độ Cộng sản Liên sô làm Việt Nam hụt hẫng. Lổ hỗng khổng lồ của chủ nghĩa xã hội không dễ trám đã đẩy chính quyền Việt Nam dựa vào Trung Quốc tìm một đồng minh từ người láng giềng đồng sàn dị mộng này. Trung Quốc hơn ai hết biết rõ điều đó và kế hoạch dùng Việt Nam như một trái độn tiến xuống phương Nam đã hình thành một cách chóng vánh.
Sự sụp đổ của chế độ Cộng sản Liên sô làm Việt Nam hụt hẫng. Lổ hỗng khổng lồ của chủ nghĩa xã hội không dễ trám đã đẩy chính quyền Việt Nam dựa vào Trung Quốc tìm một đồng minh từ người láng giềng đồng sàn dị mộng này. Trung Quốc hơn ai hết biết rõ điều đó...
Diễn tiến các cột mốc thời gian xảy ra từ năm 2005 tới nay cho thấy sự chín muồi của kế hoạch mà Trung Quốc đặt ra đã tới lúc trình diễn phần kết của một vở kịch dài.

Máu ngư dân bắt đầu đổ

Sau những thăm hỏi nồng thắm của cán bộ hai nước, ngày 8 tháng 1 năm 2005, tàu hải quân Trung Quốc nã súng bắn chết 9 người và làm bị thương nhiều ngư dân Việt Nam khác nhưng Người phát ngôn Trung Quốc nói đó là những tàu "ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển". 9 nạn nhân Việt Nam vĩnh viễn không được minh oan nhưng nghiêm trọng hơn, vụ giết người trên biển đầu tiên này do kẻ thủ ác không bị Bộ Ngoại giao Việt Nam vạch mặt trước dư luận quốc tế đã kéo theo hàng loạt vụ khác hai năm sau đó.
Một điều lạ lùng là hầu hết các vụ giết người, cướp của, đòi tiền chuộc ngoài biển thường xảy ra sau những cuộc viếng thăm hữu nghị của giới chức cao cấp của Việt Nam sang thăm Bắc Kinh.
Một điều lạ lùng là hầu hết các vụ giết người, cướp của, đòi tiền chuộc ngoài biển thường xảy ra sau những cuộc viếng thăm hữu nghị của giới chức cao cấp của Việt Nam sang thăm Bắc Kinh.
Ngày 23 tháng 8 năm 2006 Tổng bí thư Nông Đức Mạnh viếng thăm hữu nghị Trung Quốc thì tám tháng sau, đầu tháng 4 năm 2007 hải quân Trung Quốc bắt giữ 4 thuyền đánh cá Việt Nam gốm 41 người đòi tiền chuộc.
Ngày 10 tháng 4 năm 2007 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tuyên bố tại Bắc Kinh rằng "chưa bao giờ quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Trung tốt như hiện nay" thì chỉ hơn hai tháng sau ngày 27 tháng 6 năm 2007 tàu hải quân Trung Quốc lại bắn ngư dân Việt Nam làm bị thương 6 công nhân trên tàu.
Sau đó là một loạt đánh phá của tàu hải quân Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam. Hàng trăm người bỏ thây trên biển. Hàng trăm con tàu không còn hoạt động được đẩy cả làng cá Lý Sơn vào chỗ tận cùng bế tắc.

Bịt miệng dân, ai ra lệnh?...

Nước lớn lấn áp nước nhỏ là chuyện thường thấy trên thế giới nhưng chuyện hiếm thấy là nước bị hà hiếp lại cấm con dân mình lên tiếng chống đối thì có lẽ chỉ Việt Nam mới có.
Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xảy ra sau khi hàng loạt nước Bắc phi và Trung đông tan rã có phải là lý do để Việt Nam lo ngại vết xe này lan sang nguy hiểm cho chế độc hay không? Câu trà lời có thể không khó nếu quay ngược thời gian về năm 2007 khi phong trào biểu tình chống Trung Quốc chưa bị chi phối bởi cách
mạng Hoa nhài đã bị chính quyền thẳng tay đàn áp.
Ngày 9 tháng 12 năm 2007 sau các vụ giết người của Trung Quốc đối với đồng bào Việt Nam, hàng trăm thanh niên tập trung biểu tình trước Sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và Lãnh sự quán Trung Quốc tại TPHCM. Kết quả là hàng loạt người bị nhà nước bắt giữ, trù dập mãi cho tới ngày nay, tức là 5 năm sau, sổ đen công an vẫn còn ghi tên của họ. Blogger Điều Cày bị bắt giữ sau đó vào ngày 19 tháng Tư năm 2008 tại Đà Lạt cho tới bây giờ vẫn bặt vô âm tín.
Sự kiện tàu Hải giám của Trung Quốc ngang nhiên cắt cable của tàu thăm dò dầu khí PetroVN vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 đã làm bùng lên sự uất ức của dân chúng. Bà Khương Du, người phát ngôn Trung Quốc đã lên tiếng cho rằng tàu Việt Nam xâm phạm vùng biển của Trung Quốc lại càng tăng thêm sự uất ức của toàn thề người dân Việt Nam.
Về phía Việt Nam, ngoại trừ cuộc họp báo trong nước của PetroVN, Bộ Ngoại giao không đưa ra một kháng thư đủ mạnh để cảnh cáo Trung Quốc như thông lệ ngoại giao quốc tế, mà ngược lại, gửi một Thứ trưởng Ngoại giao âm thầm sang Bắc Kinh để nói chuyện khiến câu hỏi ngày một lớn hơn.
Kỹ sư Vi Toàn Nghĩa, một người lính cấm súng nhiều năm trong cuộc chiến Việt Nam hiện sống tại Hà Nội cho biết những những nhận xét của ông:
Cái vụ cắt cable tôi thấy rất là buồn cười khi ông thứ trường của mình chả ai mời lại mò sang xin lỗi họ thay vì họ phải sang xin lỗi ta! Và vừa rồi Bộ ngoại giao lại mời một ông phó tỉnh Trung Quốc sang thăm là như thế nào?
-Cái khó khăn nhất của mình bây giờ là người phụ trách họ không dám đứng thẳng. Nếu đổ cho người ta bán nước thì cũng hơi quá. Trong các xung đột ngoài biển đối với nước khác người ta xử trí rất là dõng dạc mặc dù nước người ta nhỏ hơn mình. Người ta triệu đại sứ lên trao kháng thư và đấy là điều nhà nước phải làm thế nhưng chúng ta lại không làm.
Cái vụ cắt cable tôi thấy rất là buồn cười khi ông thứ trường của mình chả ai mời lại mò sang xin lỗi họ thay vì họ phải sang xin lỗi ta! Và vừa rồi Bộ ngoại giao lại mời một ông phó tỉnh Trung Quốc sang thăm là như thế nào?

Các cuộc biểu tình của thanh niên, trí thức Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sau khi tàu Việt Nam bị cắt cable như một tiếng chuông cảnh tỉnh nhà cầm quyền. Thế nhưng ngược lại, người ta thấy chính quyền hình như nhận được một lệnh mật nào đó, khi thì buông khi thì nắm….để cuối cùng không một cuộc biều tình chống Trung Quốc nào được phép xảy ra.




Ông Lê Hiếu Đằng, nguyên phó chủ tịch Mặt trận tổ quốc Việt Nam cho biết nhận xét của ông:
-Tình hình quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cần phải được công khai minh bạch và làm cho dân người ta hiểu rõ. Mà điều cần hiểu rõ nhất là âm mưu bành trướng xâm lươc của Trung Quốc từ trước tới nay là không đổi, bản chất nó như vậy.
Hiện nay nhà nươc Việt Nam đang có biện pháp ngăn chặn tiếng nói của người dân là không đúng bởi vì thật ra đứng về quân sự mà nói thì đất nước chúng ta đối với Trung Quốc rõ ràng mình yếu hơn nhiều, nhưng cái mạnh của chúng ta là ở lòng dân là thực tế hiện nay thành ra phải làm sao khai thác cái thế mạnh này để đối phó với âm mưu của Trung Quốc thì nó mới có hiệu quả.

Hiện nay nhà nươc Việt Nam đang có biện pháp ngăn chặn tiếng nói của người dân là không đúng bởi vì thật ra đứng về quân sự mà nói thì đất nước chúng ta đối với Trung Quốc rõ ràng mình yếu hơn nhiều, nhưng cái mạnh của chúng ta là ở lòng dân là thực tế hiện nay...

thì đây…

Một việc đáng ngạc nhiên khác là sau khi viếng thăm Trung Quốc, Thứ trưởng quốc phòng Việt Nam là tướng Nguyễn Chí Vịnh thông báo với Trung Quốc rằng "Việt Nam kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn"!
Các cuộc biểu tình vào ngày Chúa Nhật là một vũ khí sắc bén khiến Trung Quốc phải nhìn lại cách cư xử thiếu quân tử của họ nhưng rất tiếc đã bị chính quyền Việt Nam dập tắt. Không những dập tắt mà còn bằng mọi cách ngăn ngừa những ngòi nổ yêu nước về sau khi các phương tiên truyền thông chính thống đua nhau bôi đen nhiều khuôn mặt trí thức yêu nước.
Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên giám đốc viện nguyên tử Đà Lạt một trí thức tên tuổi có mặt hầu hết trong các cuộc biểu tình cho biết quan điểm của ông:
Những cuộc biểu tình vừa rồi là của người yêu nước không ai có thể phủ nhận chuyện đó trong bất cứ tình huống, lập trường nào. Yêu nước thật sự dám nói lên lòng yêu nước của mình... Chứ còn bây giờ bảo rằng những người biểu tình bị ở nước ngoài hay thế lực nào xúi giục! Tôi chả thấy ai xúi giục cả.
-Những cuộc biểu tình vừa rồi là của người yêu nước không ai có thể phủ nhận chuyện đó trong bất cứ tình huống, lập trường nào. Yêu nước thật sự dám nói lên lòng yêu nước của mình. Còn nhiều người yêu nước nhưng vì nhiều lý do khác ngừơi ta không thực hiện được. Chứ còn bây giờ bảo rằng những người biểu tình bị ở nước ngoài hay thế lực nào xúi giục! Tôi chả thấy ai xúi giục cả. Trong số những người bạn của tôi chẳng
ai như thế cả.
Sau khi Ủy viên quốc vụ viện đặc trách ngoại giao của Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc sang Việt Nam, một phái đoàn quân sự cao cấp do tướng Ngô Xuân Lịch viếng thăm Bắc Kinh đã được ông Tập Cận Bình lên lớp rằng hãy giữ vững ba kiên trì trong quan hệ để cùng có lợi. Ngay trong khi phái đoàn Việt Nam còn ở Bắc Kinh thì Trung Quốc gửi chiếc tàu cá 1.000 tấn ra hỗ trợ cho 500 chiếc tàu cá khác của Trung Quốc đang đánh bắt cá trái phép trên vùng biển Trường Sa của Việt Nam. Có phải Tập Cận Bình đã có kế hoạch từ trước nên khuyên Việt Nam cần phải kiên trì để Trung Quốc hưởng lợi?
Không thể chịu nổi những uẩn khuất mà nhà nước hành xử dưới sức ép của Trung Quốc, nhiều kiến nghị, thư ngỏ của trí thức trong và ngoài nước liên tiếp gửi cho lãnh đạo cao nhất nước. Nhưng như viên đá rơi vào đại dương, không một bức thư nào được trả lời.

Tiếng chuông Lê Hiếu Đằng

Không trả lời cũng mặc, trí thức không chịu thua sự im lặng. Bức thư ngỏ mới nhất của luật gia Lê Hiếu Đằng cũng là bức thư có lời lẽ cứng cỏi nhất yêu cầu nhà nước trả lời trước nhân dân về điều mà ông gọi là hai sự việc cần phải làm rõ. Thứ nhất, tại sao lại cấm biểu tình và thứ hai là lời tuyên bố vượt chức năng của Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, có một đoạn ông viết:
"Tôi với tư cách công dân, với tư cách một cử tri của Sài Gòn – TP.HCM dùng quyền chất vấn của mình để các vị làm rõ trước công luận hai sự việc nêu trên vì tôi quan niệm rằng trong một chế độ chính trị độc Đảng nếu Nhà nước không tự nghiêm khắc với chính mình thì hiện tượng lạm quyền, lộng quyền của những cán bộ có chức quyền sẽ làm trầm trọng thêm tệ quan liêu, tham nhũng, chuyên quyền, vi phạm nghiêm trọng đến lợi ích và các quyền công dân, chà đạp lên luật pháp, đe dọa sự tồn vong của dân tộc, của đất nước."
Liệu tiếng chuông Lê Hiếu Đằng có gióng lên được chút chú ý nào từ bốn vị nguyên thủ quốc gia? Ai cũng mong là "có" nhưng liệu sức nặng Trung Quốc sẽ làm các vị tiếp tục im lặng nữa hay không thì còn phải chờ xem.






Đảng im thin thít nơi gửi Chiếu bí mất nước :


19/09/2011 13:31

0o0


Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực Văn Hóa

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-09-20
Hôm nay xin được chia sẻ những yếu tố văn hoá mà Trung Quốc đã dùng để xâm lấn một cách âm thầm làm cho Việt Nam trở thành môt phiên bản của Bắc Kinh nhằm phục vụ kế sách bá quyền đại hán của họ. Mặc Lâm có bài viết về vấn đề này.
-Trong tình hình hiện nay cái chữ "xâm lăng", phải nói như thế, về mặt văn hoá của Trung Quốc và một sự chống chõi yếu ớt, nhu nhược của những người làm công tác văn hoá ở Việt Nam hiện nay rất đáng báo động.
Ai cũng có thể thấy rõ là trên các kênh truyền hình của đài truyền hình trung ương cũng như các địa phương, thời lượng phát sóng dày đặc các phim của Trung Quốc. Bây giờ đang là mùa trung thu, cũng như suốt cả năm đồ chơi trẻ con phải nói 80% là của Trung Quốc.

Ai cũng có thể thấy rõ là trên các kênh truyền hình của đài truyền hình trung ương cũng như các địa phương, thời lượng phát sóng dày đặc các phim của Trung Quốc. Bây giờ đang là mùa trung thu, cũng như suốt cả năm đồ chơi trẻ con phải nói 80% là của Trung Quốc.
Nhận xét vừa rồi của TS Nguyễn Xuân Diện, một chuyên gia Hán nôm và cũng là người am hiểu văn hoá Trung Quốc cho thấy một vấn đề thật sự cần nhìn lại không những của những người cán bộ làm văn hoá mà còn của cả xã hội để dần dần thoát ra khỏi hệ luỵ này.

Những ý thức tự ti, tự huỷ

Nói đến văn hoá Việt Nam không hiếm người cho rằng 4 hay 5 ngàn năm văn hiến gì thì cũng xuất phát từ Trung Quốc. Cái nhìn thiển cận ấy âm thầm kéo dài từ nhiều thế kỷ trong lòng một bộ phận rất lớn của xã
hội, nhưng chưa có một phản biện đứng đắn dài hơi và thuyết phục của các nhà nghiên cứu văn hoá Việt để chuyển tải tới cộng đồng, tức là những con người đang sống, đang va chạm trực tiếp với thế giới thật mà chung quanh đầy dẫy hình ảnh, ngôn từ, thói quen, phong tục và ngay cả lối sống đều mang đậm nét Trung Quốc.
chưa có một phản biện đứng đắn dài hơi và thuyết phục của các nhà nghiên cứu văn hoá Việt để chuyển tải tới cộng đồng, tức là những con người đang sống, đang va chạm trực tiếp với thế giới thật mà chung quanh đầy dẫy hình ảnh, ngôn từ, thói quen, phong tục và ngay cả lối sống đều mang đậm nét TQ.
Nhiều nhà văn hoá học cảm thấy cô đơn khi chấp nhận dấn thân vào khu rừng rậm quá nhiều thói quen không thể từ bỏ của người Việt. Những thói quen bị quán tính hoá ấy bao trăm năm qua đã ăn sâu, biến nền văn hoá bên ngoài trở thành văn hoá Việt mà không một ý thức nào còn lại để cảnh giác rằng chúng ta đã đi quá xa, ở quá lâu và lệ thuộc quá nhiều vào nền văn hoá tưởng là đã được Việt hóa ấy.
Nhặt ra cho hết những vô lý, bất cập mà người Việt hoà mình vào dòng văn hoá phương Bắc không khó, tuy nhiên thuyết phục và biến cải thói quen cho người dân bình thường nhất lại là một việc làm không dễ trong vòng vài chục năm. Điều này một lần nữa cho thấy nền văn hoá Việt Nam đang có vấn đề mà rất nhiều cán bộ văn hoá không những không nhận ra mà còn vô tình hay hữu ý, thúc đẩy người dân chấp nhận nó như chấp nhận một việc hiển nhiên, một điều mà dân tộc đã gần gũi gắn bó hàng ngàn năm.

Vay mượn nguy hiểm…

Gắn bó và gần gũi không có nghĩa là bị đồng hoá. Lại càng không có nghĩa nếu không chấp nhận thì đi ngược lại với sự thật vì nền văn hoá ấy đã bám rễ vào văn hoá Việt.
Văn hoá thuần Việt xuất hiện rõ nét nhất trên những hoa văn, phù điêu của các ngôi chùa cổ. Những nét thủ công nghệ thuật ấy phát xuất từ ý thức sâu sắc muốn thoát ra làn sóng đô hộ văn hoá của phương Bắc làm nên nét đặc thù văn hoá phương Nam.
Các công trình đền chùa đình miếu bây giờ có cái đang xây dựng mới, cũng có cái tu sửa thì vẫn đậm chất Trung Quốc.

Tổ tiên ta cảng ý thức điều này bao nhiêu thì các thế hệ sau lại thờ ơ với nó bấy nhiêu. Nhiều ngôi chùa gần đây không thể gọi là chùa của người Việt được nữa mà phải thành thật nhận rằng nó được mang nguyên mẫu từ Trung Quốc hay Đài Loan sang. Từ kiến trúc tới tượng thờ, nhất nhất đều mang họa tiết Trung Quốc và người ta không dấu tự hào khi cho rằng đã bắt chước giống với bản sao từ nguyên mẫu. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện chia sẻ các quan sát của ông:
-Các công trình đền chùa đình miếu bây giờ có cái đang xây dựng mới, cũng có cái tu sửa thì vẫn đậm chất Trung Quốc. Chúng tôi lấy thí dụ như công trình chùa Bái Đính ở Ninh Bình hay là công trình Đại Nam Lạc Cảnh ở Bình Dương không có yếu tố Việt Nam ở trong đó. Đây là những ngôi chùa rất là đồ sộ mang dấu ấn của Trung Quốc rất rõ. Một đài tưởng niệm liệt sĩ là 10 cô gái ở Đồng Lộc, cái tháp chuông ở Đồng Lộc lại là phiên bản của Hoàng Hạc Lâu bên Trung Quốc.
Ngay cả Bảo tàng Hà Nội là một bảo tàng vừa mới xây dựng xong cũng là một mô hình copy từ một công trình kiến trúc ở Thượng Hải.

…cùng quán tính và tư duy theo đuôi

Điều nguy hiểm nhất là chính những cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý văn hoá lại không thấy có gì sai trái khi hình ảnh Trung Hoa tràn ngập Việt Nam. Nhiều quan chức còn cho rằng đó là tâm lý hàng ngàn năm nay của dân chúng và không thể thay đổi.
Phim ảnh là một ví dụ dễ thấy nhất về tính chay lười tư duy của ngừơi làm văn hoá hôm nay. Những bộ phim Trung Quốc dài nhiều chục tập giết thời gian của biết bao người trẻ tuổi? Lịch sử Việt Nam không ngoi lên nổi trong ý thức học sinh bởi tên tuổi các vua chúa Trung Hoa đã ăn sâu vào tiềm thức họ qua các phim lịch sử Trung Quốc. GSTS Nguyễn Đăng Hưng, mặc dù xa tổ quốc bao nhiêu năm nhưng khi trở vê ông vẫn muốn sinh viên của ông phải biết rõ lịch sử nước nhà hơn bất cứ điều gì khác, ông kể:
-Nay tôi về sống tại Việt Nam thì tôi lại thấy ảnh huởng của văn hoá Trung Quốc nhất là qua phim ảnh nó lại rất tràn lan và dữ dội, tôi cho rằng đây là đìêu không bình thường. Riêng bản thân tôi tôi có phản ứng là không xem phim Trung Quốc nữa.

Nay tôi về sống tại Việt Nam thì tôi lại thấy ảnh huởng của văn hoá Trung Quốc nhất là qua phim ảnh nó lại rất tràn lan và dữ dội, tôi cho rằng đây là đìêu không bình thường.
Tôi rất buồn khi qua các buổi phỏng vần tuyển chọn các em sinh viên của các lớp vào học với tôi, khi tôi tuyển sinh thì luôn luôn phỏng vần họ. Trong cuộc phỏng vấn không những kiểm tra về toán về sinh học, cơ học mà tôi còn kiểm tra về hiều biết chung trong đó có kiểm tra về đại lý và lịch sử.
Tôi rất buồn các bạn trẻ Việt Nam đã có bằng kỹ sư rồi, đã học bốn năm năm đại học rồi thế mà hiểu biết rất ít về lịch sử Việt Nam nhất là lịch sử dân tộc. Nhiều khi họ cho tôi cảm giác là họ hiểu lịch sử Trung Quốc rõ hơn qua các phim ảnh Trung Quốc. Họ hiều rất rõ nhà Thanh, họ hiều rất rõ những chuyện các anh hùgn Trung Quốc trong khi những anh hùng của Việt Nam thì rất kém.

Học giả và lý thuyết đô hộ

Kiến trúc sư Trần Thanh Vân, một chuyên gia có tuổi nghề làm việc tại Trung Quốc nhiều chục năm nhận xét những gì mà học giả Trung Quốc đang theo đuổi một cách kiên trì với mục đích đạp đổ nền văn hoá Việt Nam để sáp nhập tất cả vào kho tàng văn hoá vốn đã giàu có của họ, bà nói:

-Những người mang tiếng là nhà văn hoá Trung Quốc đã phát biểu những cái không có cơ sở văn hoá, không hiểu vể lịch sử và nói bậy thì tôi cho những cái đó mình không có gì phải sợ, Ví dụ như chuyện nền văn minh lúa nuớc. Tại sao nền văn minh lúa nứơc lại ở Việt Nam? Vì Việt Nam là vùng trũng, tập trung nhiều nứơc còn Trung Quốc làm gì có chuyện đó! Nó ở vùng đất khô cằn, vùng thảo nguyên thì làm sao nó sang dạy ta trồng lúa nước được?

Tại sao nền văn minh lúa nứơc lại ở Việt Nam? Vì Việt Nam là vùng trũng, tập trung nhiều nứơc còn Trung Quốc làm gì có chuyện đó! Nó ở vùng đất khô cằn, vùng thảo nguyên thì làm sao nó sang dạy ta trồng lúa nước được?
KTS Trần Thanh Vân
Rồi những nhà nghiên cứu trống đồng cũng bị nó nói là trống đồng của nó. Những trống đồng đó có niên đại bao nhiêu năm? Mới có năm ngoái hay là tháng trước thôi! Trong khi trống đồng Đông Sơn đào lên từ bao giờ? Các nhà nghiên cứu khảo cổ họ biết thừa, rõ ràng là chỉ lừa đựơc người không biết mà thôi.

Những nhận xét đắng lòng

Nhà giáo Phạm Toàn nhìn lại văn hoá Việt Nam trong thời gian hiện tại mà không khòi xót xa. Có thể cái nhìn của ông chỉ là một góc của vấn đề nhưng lại là góc bén nhất, quan trọng nhất đối với những ai còn nặng lòng với văn hoá Việt:
-Bây giờ cái nền văn hoá ấy đương trong cơn đại khủng hoảng. Đại khủng hoảng ở chỗ: Bây giờ không có tác phẩm nào để đời cả. Không có bài thơ nào mà thanh niên chuyền tay nhau cả. Không có bài hát nào người ta đi đường lầm rầm người ta hát cả. Không có câu thơ nào mà hai người yêu nhau thủ thỉ với nhau cả. Bây giờ không có bức tranh nào đẹp hết! Còn tượng thì tượng nào cũng như tượng nào. Không một vở kịch nào người ta mời nhau đi xem cả. Không bản giao hưởng nào người ta đòi nhau đi nghe cả! Thậm chí xiếc hay người thì người ta lại sang Pháp diễn mà không diễn trong nước nữa bởi vì diễn ở Pháp hàng tháng trời người ta sống rất đàng hoàng.
Khi thuê mượn và giao cho đạo diễn người Trung Quốc thì họ áp dụng văn hoá của họ vào phim và chỉ đặt cái tên là phim Việt Nam mà thôi. Ngay cả tình tiết, tâm lý đều là Trung Quốc cả.
GS-TSKH Nguyễn Đăng Hưng
Chúng tôi xin mượn kết luận của các trí thức sau đây để đánh động mối lo có thật và rất nguy nan về quyền lực mềm mà Trung Quốc đang dùng để  đô hộ văn hoá Việt Nam. GS-TSKH Nguyễn Đăng Hưng:
-Quyền lực mềm chính là gì? Chính là Trung Quốc dùng ảnh hưởng phim ảnh trong khi hiện nay tình trạng phim ảnh Việt Nam nhất là phim lịch sử rất ít. Phải thuê mượn người ta mà kết quả thì ai cũng biết. Khi thuê mượn và giao cho đạo diễn người Trung Quốc thì họ áp dụng văn hoá của họ vào phim và chỉ đặt cái tên là phim Việt Nam mà thôi. Ngay cả tình tiết, tâm lý đều là Trung Quốc cả. Ngay cả xuyên tạc lịch sử Việt Nam khi nhắc tới những chiến thắng của Nhà Lý nhà Tiền Lê nhưng chỉ coi đó là vấn đề nội bộ chém giết nhau cho thấy đây là một di hại vô cùng thâm độc.
TS Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện:
Bây giờ xu hướng của họ là tư tưởng đại hán bành trướng. Tôi cảm thấy bây giờ nó bắt đầu như thời gian 1.000 năm Bắc thuộc nhưng bây giờ thì kiểu khác. Nó bắt đầu rồi chứ không phải là manh nha nữa.
Kỹ sư Vi Toàn Nghĩa
-Chúng tôi mới chỉ sơ qua một phần, vài nét như vậy cho thấy văn hoá Trung Quốc đang xâm lấn văn hoá Việt Nam và bản lĩnh văn hoá Việt Nam lúc này đang trong một cơn thách thức mạnh, nhưng rất tiếc những người làm công tác quản lý văn hoá lại không nhận rõ nguy cơ này. Bên cạnh đó chưa có chỉ đạo có tính chất quyết định để chống lại sự xâm lăng văn hóa đến từ phía Trung Quốc ngày một mạnh hơn.
Kỹ sư Vi Toàn Nghĩa:
-Bây giờ xu hướng của họ là tư tưởng đại hán bành trướng. Tôi cảm thấy bây giờ nó bắt đầu như thời gian 1.000 năm Bắc thuộc nhưng bây giờ thì kiểu khác. Nó bắt đầu rồi chứ không phải là manh nha nữa. Bắt đầu bằng những chính sách của họ và ngay bản thân những chính sách của mình nữa đã thể hiện rằng thời kỳ Bắc thuộc đã bắt đầu nhưng dưới hình thức khác.
Ước gì cả xã hội từ đây sẽ xem vấn đề văn hoá Trung Quốc với một tâm thức khác, tỉnh táo và công bằng hơn đối với văn hoá Việt Nam vốn dĩ đã và đang bị làm cho nghèo đi do vô tình, do lợi nhuận hay do nhận thức dễ dãi mà nền văn hoá ấy đang dần dà trở thành gánh nặng hơn là di sản quý giá của dân tộc cần được giữ gìn.


Kant nơi gửi Vietnam :


20/09/2011 19:49

0o0

http://namvietnetwork.wordpress.com/2011/07/14/bac-h%E1%BB%93-va-trung-qu%E1%BB%91c/






1 Vote
LTS: Theo lời tự giới thiệu của tác giả, ông là một cán bộ hơn 44 năm tuổi đảng, hiện đã về hưu và sống ẩn dật tại thành phố mang tên Bác. Điều này, tuy vậy, không giúp khẳng định được tác giả Nguyễn Tất Trung có hay không có quan hệ máu mủ gì với Nguyễn Tất Thành!
Trong mọi trường hợp, tạp chí Da Màu xin hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc bài "nhận định" thú vị của tác giả Nguyễn Tất Trung.
Gần đây, các thế lực thù địch của chế độ ta đã lợi dụng chủ nghĩa quốc gia cực đoan mù quáng để gây ra một phong trào chống Trung Quốc và cố tình tạo những mầm mống để suy giảm quyền lãnh đạo tối cao của Đảng và nhà nước. Để đối phó với bọn phản động, không gì hữu hiệu hơn là học tập kỹ càng lại tấm gương lịch sử của Bác Hồ vĩ đại, nhìn vào thực tại thế giới và chọn con đường đã do chính Bác di chúc lại.
Bác Hồ luôn luôn là một nhà quốc tế chủ nghĩa:
Trong suốt cuộc đời tận tụy hy sinh cho Đệ Tam Thế Giới của chủ nghĩa Cộng Sản, Bác Hồ luôn luôn đặt quyền lợi của nghĩa vụ quốc tế lên trên cái thiển cận hẹp hòi của quốc gia. Bác Hồ đã tích cực hoạt động cùng Cộng Sản Pháp để bành trướng cơ sở nơi đây, nhận huấn luyện ở Liên Xô để trở thành một cán bộ xuất sắc của Đệ Tam Quốc Tế, có mặt trong mọi chiến dịch diệt tư sản và phong kiến của Trung Quốc. Nhờ những công lao đóng góp không ngưng nghỉ này, một khi Cộng Sản Việt Nam phất cờ đứng dậy, các anh em Cộng Sản quốc tế đã sẵn sàng hỗ trợ đắc lực cho chiến thắng của chúng ta. Dù chúng ta đã hy sinh nhiều triệu người để dẹp tan bọn quốc gia miền Nam và quan thầy Pháp và Mỹ, không có Đệ Tam Quốc Tế, chúng ta đã không có ngày nay. Bác Hồ đã nhìn xa trông rộng, ngay khi còn là một thanh niên, để hiểu về yếu tố tất thắng tự nhiên của chủ nghĩa Cộng Sản theo đúng sách lược của Mác Lê. Để chủ nghĩa quốc gia bén rễ ở xứ sở này là đi ngược lại lời căn dặn của Bác Hồ. Ngay cả đồng chí Lê Duẩn cũng hiểu rõ nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc khi tuyên bố vào năm 1976 là "chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và chúng ta đã thành công trong việc cắm lá cờ quốc tế Mác Lê trên toàn cõi Việt Nam."
Người Cộng Sản chân chính phải là một người của quốc tế:
Bản Tuyên Ngôn Của Cộng Sản do Mác viết vào 161 năm về trước (24.2.1848) nói rõ về mục tiêu tối hậu của mọi người cộng sản là xây dựng một xã hội vô sản chuyên chính, xóa bỏ mọi giai cấp bất công, mọi tài sản gây giàu nghèo. Tất cả đồng chí không phân biệt quốc gia chủng tộc cùng đoàn kết, dùng bạo lực để tận diệt bọn phát xít tư bản và trưởng giả.
Năm 1919, Komintern Đệ Tam Quốc Tế được thành lập để thống nhất đội binh vô sản quốc tế dưới sự chỉ huy của một bộ tư lệnh toàn quyền về cơ chế, mục tiêu và đường lối. Theo điều 17, các đảng thành phần của Đệ Tam Quốc Tế chỉ là những chi bộ của Komintern, một tổ chức quốc tế, không chấp nhận những khác biệt quốc gia. Đồng chí Lê Nin nói rõ rằng nhiệm vụ duy nhất của người cộng sản là thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Xô Viết quốc tế, và từ bỏ mọi tư tưởng cải lương, tinh thần quốc gia, cũng như chấp nhận bạo động và độc tài vô sản. Đồng chí Lê Nin còn đòi hỏi người cộng sản phải tuyệt đối tôn trọng kỷ luật vì vi phạm kỷ luật là phản bội giới công nhân vô sản.
Bác Hồ và toàn thể cán bộ lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác quyết không biết bao lần về sự trung thành tuyệt đối với đường lối và mục tiêu của Đệ Tam Quốc Tế. Chủ thuyết "Tam Vô" là nền tảng căn bản của mọi suy nghĩ của người Cộng Sản chân chính: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo.
Nguồn cội của dân tộc Việt là Trung Quốc:
Không hiểu rõ con người cộng sản, bọn quốc gia trưởng giả đã đem lá bài chống Trung Quốc mong làm sai lạc tầm nhìn của dân tộc. Họ quên rằng nguồn gốc của dân Việt khởi thủy ở sông Dương Tử của Trung Quốc. Xét cho kỹ, chúng ta thực sự là người Hán và tổ tiên chúng ta còn Trung Quốc hơn cả những sắc dân thiểu số của Trung Quốc như người Tây Tạng, người Tân Cương, người Hồi, người Mông. Như Bác Hồ đã tuyên bố, ta và Trung Quốc như môi và răng, sông liền sông, núi liền núi, hai mà một; chúng ta là một gia đình, một đảng bộ, một chí hướng, một con đường.
Bọn quốc gia trưởng giả đem chuyện Trường Sa, Tây Sa ra để gây chia rẽ. Bọn chúng quên rằng hơn 3 ngàn năm lịch sử, Việt Nam là một phần của Trung Quốc, không chia rời. Lá rụng về cội: một ngày nào đó không xa, anh em Việt Nam và Trung Quốc sẽ lại trùng phùng và gia đình lại sum họp vui vẻ bên nhau. Chúng ta sẽ cùng nhau hãnh diện là người Trung Quốc, chia xẻ nền văn hóa Trung Quốc và sát cánh tranh đấu cho chế độ vô sản chuyên chính. Tương lai của Việt Nam là tương lai của Trung Quốc, hay ngược lại.
Bác Hồ biết rất rõ ơn nghĩa của anh em Trung Quốc:
Trong hành trình đấu tranh cho Đệ Tam Quốc Tế, không lúc nào là Bác Hồ không yêu thương Trung Quốc. Bác học tiếng Quan Thoại thật thuần thục để viết những bài thơ đầu tiên trong tù tặng anh em Trung Quốc. Bác nói rằng người anh hùng thần tượng của Bác là Bác Mao. Trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ, Bác cư xử rất khiêm tốn lễ độ với các cố vấn Trung Quốc, và nhờ thế, Trung Quốc đã giúp chúng ta thật nhiều, từ vũ khí binh lính, đến sách lược chiến trường. Tình yêu của Bác dành cho Trung Quốc là yếu tố quyết định trong chiến thắng vĩ đại. Không có sự chỉ huy tài tình của tướng Vệ Quốc Chinh thì làm sao chúng ta có được Điện Biên Phủ trong sử sách.
Tấm gương khiêm tốn lễ độ và yêu thương của Bác Hồ với các đồng chí Trung Quốc phải được truyền rộng khắp đất nước ta để toàn dân học tập và tuân thủ. Tấm gương này sẽ xóa tan mọi hiềm khích giữa hai bên để Việt Nam chóng trở về với Trung Quốc và thực sự thành một chi bộ tốt của Đệ Tam Quốc Tế, bên cạnh người anh cả Trung Quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên đã tỏ rõ chân lý của trí tuệ sáng ngời khi ông giáng bút:
"Bác Mao không ở đâu xa
Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao".
Trung Quốc sẽ là một siêu cường trong 10 năm nữa:
Nhờ cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện tại, siêu cường tư bản Mỹ đã suy thoái trầm trọng, đúng như lời tiên đoán của Mác Lê. Lãnh đạo đế chế Cộng Sản mới là người anh em đồng chí Trung Quốc của ta. Nhiều nhà kinh tế đã gọi thế kỷ 21 là thế kỷ của Trung Quốc. Ngay cả Liên Xô, sau khi bị tư bản xâm chiếm, đã bắt đầu chính sách mới, trở lại với Đệ Tam Quốc Tế. Ngọn cờ đỏ của Cộng Sản sẽ tràn ngập mọi ngả đường của thế giới. Gia nhập đế chế mới của Trung Quốc là một hành động thức thời không khác gì ngày Bác Hồ qua Liên Xô năm 1920 để trở thành một cán bộ tài ba của Đệ Tam Quốc Tế.
Không những về chính trị, Trung Quốc còn có thể đem lại cho Việt Nam những no ấm về kinh tế, như đã giúp đỡ người Tây Tạng nâng cao mức sống từ năm 1952 sau khi Tây Tạng gia nhập cộng đồng Trung Quốc. Vì nghĩa vụ quốc tế, trong 10 năm trở lại đây, Trung Quốc đã đầu tư tiền và người vào biết bao dự án lớn nhỏ của Việt Nam. Mới nhất là dự án bô xít ở Tây Nguyên, nơi Trung Quốc sẽ đầu tư hơn 15 tỷ đô la Mỹ và cung cấp toàn bộ khoa học công nghệ và chuyên gia cho dự án.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, văn hóa Khổng Mạnh là cột trụ của xã hội, từ triều đình đến thôn xóm. Văn hóa Việt Nam thực sự không hiện hữu, mà là một cóp nhặt hoàn toàn từ Trung Quốc. Ngay cả hiện tại, dù nằm dưới ách đô hộ của Pháp Mỹ cả trăm năm qua, người Việt cũng đã biết về nguồn và mọi chương trình văn hóa nghệ thuật phổ thông đều có xuất xứ từ Trung Quốc. Những tập tục cư xử của người Việt trong xã hội hiện tại cũng rập khuôn Trung Quốc.
Tóm lại, Việt Nam thực sự là Trung Quốc về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Bọn quốc gia cực đoan, theo Mỹ học làm trưởng giả kiểu kinh tế thị trường, không thể biến cải định lý này. Người Cộng Sản phải vạch mặt chỉ tên những lũ phản động này. Theo gương Bác Hồ vĩ đại, người Việt phải đứng trong hàng ngũ của đế chế mới do Trung Quốc lãnh đạo. Chúng ta sẽ hãnh diện về nguồn, làm một phần không thể tách rời của văn minh Trung Quốc.
Nguyễn Tất Trung



SỰ THẬT VÀ BỊA ĐẶT
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Sự cảm phục về Người, đã có nhiều chuyên gia và phóng viên nước ngoài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với tất cả lòng kính trọng. Hôm nay BBT xin giới thiệu nhà báo người Nga Sergey Afonin vừa có bài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong những ngày thu năm 2010, cả nước Việt Nam long trọng kỷ niệm 65 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào, khai sinh ra nước Việt Nam, mở ra một trang sử mới trên con đường đấu tranh giành độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam. Lúc sinh thời, Hồ Chủ tịch coi bản tuyên ngôn được chính Người viết tại một căn nhà bí mật ở Hà Nội là tác phẩm tâm đắc nhất của mình. Căn nhà đó, nay trở thành di tích lịch sử của đất nước. Ấy vậy mà lại có một số kẻ mang trong mình dòng máu Việt lại trắng trợn xuyên tạc là đã có người viết giúp Hồ Chí Minh bản tuyên ngôn đó. Không dừng lại ở đó, chúng còn lôi kéo một số người Việt lưu vong tham gia vào việc bôi nhọ, xuyên tạc cuộc đời hoạt động cách mạng, đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh.
Vì lòng tôn kính đối với lãnh tụ của Việt Nam – Hồ Chí Minh, vì tình yêu đối với đất nước và người dân Việt Nam, xuất phát từ cuộc đời của mình từng gắn bó với Việt Nam, tôi nhận thấy rằng: chính những người đồng chí đã kề vai sát cánh với Bác Hồ trên con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước; chính người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế có dịp tiếp xúc, làm việc với Hồ Chí Minh mới là những người đánh giá khách quan nhất về Bác.
Tôi may mắn được 3 lần gặp Bác Hồ vào các năm 1961, 1964 và 1969 tại Hà Nội. Ấn tượng cá nhân của tôi về Hồ Chí Minh – đó là một con người hết sức thông thái, nắm vững tình hình thế giới, trân trọng lý luận của Lenin và kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười Nga.
Tôi cũng đã từng nhiều năm làm chuyên viên tại Ban Đối ngoại TW Đảng Cộng sản Liên Xô, đã có rất nhiều dịp được tiếp kiến, trò chuyện lúc thì ở Hà Nội, khi thì ở Mátxcơva với các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Định… Hầu hết những nhà lãnh đạo đó đã trải qua tù đầy, hoạt động bí mật và cũng như Hồ Chí Minh, họ giữ gìn đạo đức cách mạng và lòng trung thành đối với dân tộc.
Tôi đã gặp vô số nông dân, công nhân, trí thức, chiến sỹ lão thành cách mạng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ở Việt Nam. Qua những cuộc tiếp xúc với họ, tôi mới cảm nhận được tình yêu và sự kính trọng từ trong lòng mình của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ của mình. Đối với họ, Bác Hồ là một con người thông thái nhưng giản dị, bằng cả trái tim mình lo cho đồng bào và vận mệnh nước nhà. Thời gian sẽ cho chúng ta thấy rõ, bất chấp những lời vu khống và bịa đặt, hình ảnh gần gũi và giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi là tấm gương mẫu mực cho tất cả những ai có thiện chí trên thế giới này. Vì vậy, tôi không thể nào đồng ý với những người làm ra cuốn DVD "Sự thật Hồ Chí Minh", trong đó nhận định Hồ Chí Minh đã coi thường lợi ích của nhân dân mình, đưa dân tộc này đi theo con đường sai lầm. Chỉ cần tập hợp tất cả những hồi ký, bài viết về Hồ Chí Minh của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, tôi chắc rằng đó sẽ là một thư viện khổng lồ và chân thực nhất về Người.
Di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh ngày nay đang được nghiên cứu, giảng dạy và vận dụng tại Việt Nam, tư tưởng này có ý nghĩa quốc tế rất cao do được cả thế giới tiến bộ thừa nhận. Di sản to lớn đó ngày càng được phổ biến rộng rãi trên hành tinh. Và thực tế đó là đúng đắn nhất, khác với những gì kẻ thù bịa đặt về con người vĩ đại này.
Tôi và Tiến sỹ sử học Evgheny Kobelev (hiện nay là lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Viễn Đông – Viện Hàn lâm Khoa học Nga) đã viết 2 cuốn sách về Hồ Chí Minh, đọc hầu hết những tác phẩm của Người và những hồi ký về Người. Hoạt động tích cực của Hồ Chí Minh tại Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và điều đó báo hiệu cho những thắng lợi tiếp theo của Cách mạng Việt Nam sau này.
Trong nhiều năm, Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, sau đó phải chống bọn xâm lược Pháp một lần nữa và cuối cùng là chống Mỹ xâm lược. Trong thời khắc nóng bỏng của cuộc chiến tranh cuối cùng này, tháng 6/1966 Hồ Chủ tịch tuyên bố: "Nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quí hơn độc lập tự do!". Tôi được tận mắt chứng kiến khẩu hiệu đó đã cổ vũ nhân dân Việt Nam ở miền Bắc và miền Nam đạt được những chiến công rực rỡ như thế nào. Câu nói về giá trị của ĐỘC LẬP và TỰ DO đã được ghi tạc trong lăng của Người ở thủ đô Hà Nội.
Có thể coi Lời di chúc của Hồ Chí Minh là một trong những tài liệu quan trọng nhất chứng minh rõ tư duy triết học của Người, tình yêu vô bờ bến đối với đồng bào, niềm tin không gì lay chuyển nổi vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng, tính lạc quan và niềm tin vào bạn bè trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đang xây dựng xã hội mới hạnh phúc, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, ổn định, dân chủ và phồn vinh, đúng như ước nguyện của Hồ Chủ tịch. Điều đó đã khiến tất cả những người bạn của nhân dân Việt Nam cảm thấy vui mừng. Chính mắt tôi đã chứng kiến những đổi thay to lớn trên đất nước Việt Nam trong chuyến đi tham dự Hội thảo quốc tế "Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay" được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2010.
Trong chuyến công du gần đây nhất đến Việt Nam cuối tháng 10/2010, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cũng đã khẳng định 10 năm qua, Việt Nam đã phát triển và thay đổi mạnh mẽ theo hướng hiện đại hơn. Tuy nhiên, những thành tựu mà Việt Nam đạt được lại gây nên sự ghen tị, thù hằn và bực tức cho những kẻ thù của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là những kẻ sống lưu vong ở nước ngoài. Chúng không thể nào hài lòng với thực tế này nên một số kẻ âm mưu gieo rắc những thông tin sai lệch về Bác Hồ. Mục đích của bọn chúng nhằm gây ra sự hỗn loạn ở Việt Nam sẽ không bao giờ đạt được. Hình ảnh của Bác Hồ không ai có quyền xuyên tạc và xúc phạm bởi đó là hình ảnh một danh nhân văn hóa đã được Tổ chức Văn hóa và giáo dục Liên hợp quốc thừa nhận.
Trong lịch sử khó tìm thấy hai sự đối lập vĩnh viễn – đó là SỰ THẬT và BỊA ĐẶT. Không gì có thể bào chữa được cho những kẻ phản bội Tổ quốc mình và làm những gì mà chủ của nó sai khiến, những kẻ muốn tước đoạt những thứ không bao giờ có thể lấy lại được. Không ai có thể phá hoại những thành tựu của nhân dân Việt Nam, uy tín xứng đáng của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Matxcơva, tháng 2/2010




0o0





Tuesday, 13 September 2011 20:24
Written by Trúc Giang
Kính tặng các độc giả Việt Vùng Vịnh : Cựu Trung tá Vũ Trọng Mục
Các đại úy: Trịnh Huy Trường, Nguyễn Tiến Đức, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Vui, Đặng Văn Cường, Nguyễn Ngọc Thạch, Hải quân Thiếu tá Lê Châu An Thuận, HQ Đại úy Lê Duy Mậu và anh Triệu Trần.
Trúc Giang MN

NHỮNG CUỘC THANH TRỪNG ĐẨM MÁU TRONG CÁC ĐẢNG CS

I. TỔNG QUÁT

Mục đích tối hậu của người làm chính trị là nắm lấy quyền lực. Ở những nước dân chủ thì quyền lực được nhân dân trao cho một cách hợp pháp, có giới hạn bằng những nhiệm kỳ, qua những cuộc bầu cử công bằng. Đó là sinh hoạt của xã hội văn minh.
Trái lại, bọn lưu manh thì dùng thủ đoạn và bạo lực để cướp chính quyền. Khi đã nắm được chính quyền rồi, thì dùng những thủ đoạn gian manh, lừa bịp để bảo vệ và duy trì quyền lực.
Mao Trạch Đông đã nói: "Súng đẻ ra chính quyền".
Lịch sử của các đảng Cộng sản là lịch sử của những cuộc thanh trừng dã man, tàn bạo, điển hình là đảng CS Liên Xô, Trung Cộng và cả đảng CSVN nữa.
Tại sao các đồng chí lại phải thanh trừng lẫn nhau?
Lý do giản dị là, các đảng Cộng Sản (CS) là những tổ chức độc tài, không những độc tài với quần chúng nhân dân, mà còn độc tài trong nội bộ đảng nữa. Không có dân chủ thì sinh ra tranh chấp. Tranh chấp sinh ra bè phái, phe nhóm. Sức mạnh là yếu tố chiến thắng trong mọi tranh chấp.
Vì nạn bè phái, phe nhóm, cho nên những cuộc thanh trừng thường kéo theo rất nhiều người từ trung ương đến địa phương và cuộc thanh trừng được tổ chức bằng những chiến dịch hoặc được gọi là cuộc cách mạng.
Triệt hạ đối thủ chính trị bằng nhiều hình thức như đấu tố, bắt bớ giam cầm, ám sát, thủ tiêu, cô lập, quản chế...

II. CHI TIẾT

1* Cuộc thanh trừng trong đảng Cộng Sản Liên Xô
1.1. Diễn tiến Đại Thanh Trừng
Đại Thanh Trừng là một chiến dịch thanh trừng đẫm máu diễn ra ở Liên Xô dưới sự chỉ đạo của Joseph Stalin vào thập niên 1930. Đó là một cuộc thanh trừng vĩ đại, tàn sát những người chống đối tư tưởng và chế độ Stalin. Nạn nhân là những đảng viên cao cấp trong đảng Bolshevik. Nổi tiếng nhất là Trotsky, bị tống ra khỏi đảng năm 1927, bị đày tới Kazakhstan năm 1928 và sau đó bị trục xuất ra khỏi Liên Xô năm 1929. Sau cùng, Stalin cho người ám sát Trotsky tại Mexico City năm 1940.
Stalin đã hủy hoại về mặt tinh thần và thể xác những đối thủ chính trị, ngay cả những người từng là thân cận. Có đến hàng triệu người bị giam giữ trong các trại lao động cưỡng bách (Gulag), bị giết, như con trai của Trotsky là Lev Sedov.
Hai năm 1936, 1937 là thời gian kinh hoàng nhất đã bao trùm trên Liên Xô, gọi là "Nỗi khiếp sợ vĩ đại".
Chính tay Stalin đã ký 40,000 giấy cho phép xử bắn những người tình nghi là đối thủ chính trị của ông ta. Ngoài ra, hàng loạt người bị bắt giữ, tra tấn và hành quyết mà không cần toà án.
Theo tài liêu được giải mật, chỉ riêng 2 năm 1937, 1938 đã có 681,692 người bị xử bắn. Các nhà sử học cho rằng con số nầy đã bị nhà nước Liên Xô giảm xuống. Thật ra, con số thật sự khoảng 1,548,367 người bị xử bắn. Tính ra, trung bình có hơn 1,000 người bị giết mỗi ngày.
Hàng triệu người được chuyển tới những trại lao động cưỡng bách.
Trong các cuộc điều tra của Bộ An Ninh thì có:
- 1,710,000 người bị bắt giữ.
- Có ít nhất là 2,000,000 người bị kết vào những tội dân sự.
1.2. Joseph Stalin
Tên Nga là Iosif Vissarionovich Stalin, sinh ngày 18-12-1878. Quân hàm Đại nguyên soái, Tổng tư lịnh Quân Đội LX.
Ngày 1-3-1953, sau khi ăn tối với Bộ trưởng Nội vụ là Beria (Giám đốc KGB) và 3 thủ tướng tương lai là Georgi M. Malenkov, Nikolai A. Bulganin và Nikita S. Khrushchev ở Moskva, thì Stalin bị ngã quỵ trong phòng rồi nằm liệt giường. Đám cận vệ lấy làm lạ là không thấy ông thức dậy vào buổi sáng hôm sau, nhưng họ có lịnh của Beria là không được quấy rầy Stalin, cho nên đến tối hôm đó, mới phát hiện Stalin đã chết.
Có nguồn tin cho rằng Beria đã đầu độc Stalin để chiếm đoạt chức vụ. Và Beria là người thay thế Stalin liền ngay sau đó. Beria bị Khrushchev xử tử ngày 23-12-1953.
Stalin được tuyên bố là đã qua đời vào ngày 5-3-1953 (74 tuổi). Thi hài được giữ trong Lăng Lênin cho mãi tới ngày 31-10-1961 thì mới bị mang ra khỏi Lăng và chôn bên cạnh tường của Điện Kremlin.
1.3. Beria, tên đao phủ của Stalin
Lavrentiy Pavlovich Beria (29-3-1899 - 23-12-1953) là tên đồ tể thi hành những vụ bắt bớ giam cầm, ám sát và thủ tiêu những đối thủ chính trị của Stalin.
15 thành viên của chính quyền Bolshevik đầu tiên, ngoại trừ Stalin, thì 14 người còn lại đã bị Beria xử bắn 10 người và thủ tiêu 4 người. Beria cũng ra lịnh cho Ramon Mercader ám sát Trotsky tại Mexico City ngày 20-8-1940.
Beria tiến hành thanh trừng trong quân đội.
- 3 trong 5 Nguyên soái bị tử hình.
- 3 trong 5 Tổng tư lịnh QĐ bị tử hình.
- 10 Phó tổng tư lịnh QĐ bị tử hình
- 57 trong 85 Tư lịnh Quân đoàn bị tử hình
- 110 trong 195 tư lịnh sư đoàn bị tử hình.
Beria, Giám đốc KGB, có thể bắt giữ và giết chết bất cứ ai, thường bắt gái đẹp ngoài phố đưa về văn phòng hãm hiếp. Sau khi Stalin chết, Beria lên thay thế nhưng liền sau đó bị nhóm của Nikita Khrushchev, gồm Molotov và Malenkov bắt giam cùng với bè đảng hàng chục người.
Một toà án đặc biệt do nguyên soái Ivan Konev lãnh đạo, đã bí mật xét xử từ ngày 16 đến 23-12-1953. Khi quyết định của toà án đưa ra thì Beria đã bị xử bắn tại phòng giam của cơ quan Phòng không. Có nghĩa là, Beria đã bị giết chết trước khi toà án được thành lập.
Stalin đã tạo ra chính sách Tôn sùng cá nhân để tự tôn sùng mình. Nhiều nhà báo cho rằng Stalin tàn bạo hơn Hitler, ở chỗ Stalin tàn sát đồng bào của mình bằng chính sách khủng bố nhà nước.
1.4. Đảng Cộng Sản Việt Nam nâng bi Stalin
Stalin là tên đồ tễ của đảng CS Liên Xô (Bolshevik). Các khuôn mẫu về tàn sát đồng bào của mình đã được thi hành rập khuôn bởi những tên dồ tễ như Mao Trạch Đông, Pol Pot và cả Hồ Chí Minh nữa.
Sự thật còn chứng cớ ràng ràng không thể chối cãi được.
Tại Đại Hội II ở Việt Bắc vào tháng 2 năm 1951, Hồ Chí Minh chỉ lên hình Mao Trạch Đông và Stalin treo trên hội trường, bác nói:
"Hai vị lãnh tụ nầy của chúng ta không bao giờ phạm sai lầm, bác có thể bảo đảm chắc chắn như thế".
Tố Hữu ca ngợi Stalin như sau:
Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng lúa tốt thuế mau xong
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt
**
Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Xít ta lin bên cạnh nhi đồng
Áo ông "thấm đỏ máu hồng"
(Áo ông trắng giữa mây hồng)

Mắt ông hiền hậu, miệng ông mĩm cười.
**
Ông Xit ta lin! ông Xít ta lin!
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười!"
(Tố Hữu)
Thật là nâng bi trâng tráo quá cỡ thợ mộc. Nâng bi tập thể, nâng bi có kế hoạch. Nâng bi tội ác! Vậy ai là tay sai đế quốc đây?
"Nước tôi có Đặng Xuân Khu
Đâm chết thằng chú, bỏ tù thằng cha."
Kẻ nào ở miền Bắc XHCN hỗn hào hết chỗ nói. Chẳng những chửi  Đặng Xuân Khu Trường Chinh, mà còn chửi leo tới thằng cha, thằng chú!
Ngày 30-10-2009, Tổng thống Nga Dmitry Atolyevich Medvedev đã viết trên trang Blog của ông như sau:
"Hàng triệu người đã chết vì khủng bố do những cáo buộc dối trá. Không có sự phát triển nào gọi là thành công, bằng cái giá của hàng triệu sinh mạng của đồng bào mình. Không gì có thể đặt trên sự sống của con người cả. Hành động giết hàng loạt nhân dân mình của Stalin, không có lời giải thích nào thoả đáng cả".
Trong một bài diễn văn có tên là "Bài diễn văn bí mật" được đọc vào lúc nửa đêm ngày 5-3-1956, Khrushchev đã tố cáo tội ác của Stalin: Tôn sùng cá nhân, vi phạm nội quy đảng về lãnh đạo tập thể, là một kẻ sát nhân và tra tấn (Murderer, Torture), chụp mũ giết hại đảng viên lão thành Bolshevik.
Kết quả, hạ bệ Stalin. Mang xác Stalin ra khỏi Lăng Lênin.
2* Thanh trừng trong đảng Cộng sản Trung Quốc
2.1. Mao Trạch Đông xung đột với Lưu Thiếu Kỳ
Thất bại của "Đai Nhảy Vọt"
Mao Trạch Đông muốn nhảy từ nông nghiệp lạc hậu thẳng lên công nghiệp để trở thành một siêu cường quốc giàu nhất, mạnh nhất thế giới trong vòng 10 năm.
Sáng kiến xây dựng lò cao luyện thép ở sân nhà của nông dân. Thế là đã có trên một triệu lò cao được xây dựng.
Phát động chiến dịch thi đua đi tìm "quặng". Già trẻ bé lớn đều phải tham gia. Đinh vít, dao búa, bản lề, cuốc xẻng và ngay cả kẹp tóc, kim khâu cũng được thu nhặt đưa vào lò.
Khẩu hiệu " một cục sắt là một tên đế quốc bị tiêu diệt". Nông dân bỏ mùa màng, hoa màu không ai gặt, vào thi đua luyện thép.
Thiếu than đốt lò. Cột nhà, mái rạ, bàn ghế, cây cối trong vườn, ngoài rừng ra tro hết.
Thu được một triệu tấn nhưng phân nửa là vô dụng.
Thất bại là do cái tối tăm dốt nát của một nông dân thất học Mao Trạch Đông mà ra.
Bành Đức Hoài lớn tiếng chỉ trích. Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thì làm ngược lại những nguyên tắc của Mao. Thế là mâu thuẫn phát sinh, đưa đến thanh trừng.
Lưu Thiếu Kỳ thì bị loại trừ ra khỏi đảng, bỏ tù và hành hạ cho đến chết. Vợ của Lưu là Vương Quang Mỹ bị Giang Thanh sai Hồng Vệ Binh đem ra đấu tố ngoài đường phố.
Buộc Vương phải mặc váy dơ bẩn, cổ mang vòng hạt ngọc giả làm bằng nhựa, to bằng quả bóng bàn. Bọn sinh viên Hồng Vệ Binh đánh đập, đá, bắt phải quỳ cúi đầu xuống, nhưng Vương vẫn ngẩng đầu lên và đứng dậy.
Mao Trạch Đông dở trò độc ác, tách riêng vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ (LTK) ra mỗi người một nơi để đấu tố, tránh trường hợp Lưu phát biểu tố cáo tội ác của Mao trước công chúng.
Hàng trăm người liên hệ xa gần với vợ chồng LTK đều bị bắt giữ, tra tấn, đe dọa, mớm cung, bịa chuyện để bắt tội LTK.
Vương Quang Mỹ, vợ của LTK bị giam 12 năm và sao đó bà chết lặng lẽ ngày 13-10-2006.
Bành Đức Hoài cũng vậy, bị giam cho đến chết trong tù năm 1976. Số của Bành Đức Hoài (BĐH) rất bi đát. Bị quản chế ở vùng núi Tứ Xuyên năm 1957. Năm 1961 được cho về thăm quê nhà ở Hồ Nam. Năm 1966, Mao sai một viên tướng đi giải BĐH về Bắc Kinh. Viên tướng cảm phục và xin tha tội cho Bành, thì bị Mao bỏ tù luôn.
Mao cho tay chân hành hạ BĐH một cách tàn nhẫn. Đánh đập bằng gậy, mang giày da đá và đạp làm cho Bành bị gãy 2 xương sườn, chết đi sống lại. Bị hỏi cung 260 lần để tìm người cùng phe nhóm. BĐH ở tù 15 năm, chết được chôn dưới một bí danh. Sau khi Mao chết, ngày chết của BĐH mới được các cháu chắt biết ngày làm giỗ. Bành Đức Hoài chết chỉ vì dám phê bình Mao Trạch Đông.
2.2. Mao Trạch Đông giết Lâm Bưu
Lâm Bưu là thuộc cấp của Bành Đức Hoài, lừa thầy phản bạn, được Mao cho Lâm Bưu thay thế BĐH ở chức vụ Bộ trưởng Quốc Phòng, rồi làm Phó chủ tịch đảng, là nhân vật số hai và được chọn làm người kế vị Mao. Lâm Bưu là "Kiến trúc sư" của cuộc Cách mạng Văn hoá.
Mao còn cho vợ của Lâm Bưu (LB) vào Bộ Chính Trị. Bà nầy không có tài mà còn nổi tiếng là đa dâm. Ở Nga, là bồ bịch với sĩ quan Nga, về nước thì quan hệ tình dục buông thả vì Lâm Bưu bất lực, tạng yếu, sợ nước, sợ gió và tiếng động. Mật vụ của Mao còn ghi âm những buổi trao đổi tình ái mùi mẫn trên điện thoại với viên Tổng tham mưu trưởng họ Hoàng.
Lòng tham quyền lực của LB không có giới hạn. LB muốn nắm lấy ghế Chủ tịch nước, thay thế Lưu Thiếu Kỳ.Trái lại, Mao Trạch Đông thì muốn bãi bỏ chức vụ đó, vì muốn trong nước chỉ có một chủ tịch, là chủ tịch đảng của Mao mà thôi.
Bất đồng ý kiến nảy sinh. Mao là người nham hiểm, ra tay triệt hạ những thủ hạ thân cận của LB. LB biết không chống lại nổi Mao, cho nên có ý định đưa vợ con chạy trốn.
Kế hoạch đã vạch nhưng chưa biết sẽ chạy trốn ở đâu, Hồng Kông, Nga hay Đài Loan. Lâm Bưu, vợ là Diệp Quần và con trai là Lâm Lập Quả, có bí danh là Hổ.
Hổ rất ghét Mao. Thường gọi Mao là bạo chúa, là B-52 bụng bự chứa đầy những tư tưởng xấu xa để giết đám đông.
Hổ âm mưu ám sát Mao nhưng không thực hiện được.
Một sai lầm lớn của Hổ là viết thơ cho chị là Lâm Lập Hành bảo về nhà gấp để sáng sớm hôm sau cả nhà lên đường chạy trốn.
Nhưng người chị ruột nầy là người mê muội, bị nhồi sọ và là 1 người rất tích cực trong Cách mạng Văn Hoá, cho rằng chạy ra nước ngoài là một hành vi phản bội tổ quốc, cho nên đã mật báo với lực lượng bảo vệ. Tin tức nầy được thông báo ngay cho Chu Ân Lai, và Chu ra lịnh kiểm soát vị trí của tất cả những phi cơ, nhất là chiếc Trident mà LB thường dùng.
Hổ được bạn bè báo tin về lịnh kiểm soát của Chu Ân Lai, cho nên phải chạy trốn ngay.
23giờ 50 xe chở gia đình Lâm Bưu vào sân bay, nhưng xe không dừng ở trạm kiểm soát mà chạy vượt qua cổng, làm cho viên quản lý thường đưa LB ra phi trường, biết rằng có việc chạy trốn, nên hô hoán lên và nhảy ra khỏi xe. Có vài tiếng súng nổ.
Chiếc Trident đang đổ xăng mới có 12 tấn rưỡi nhưng phải cất cánh ngay. Phi hành đoàn 9 người nhưng chỉ còn có 4. Lại thêm một người bạn của Hổ trên chuyến bay.
2 giờ sau, phi cơ đến Ngoại Mông trên đường qua Liên Xô thì kim báo nhiên liệu sắp hết và bị nổ tung lúc 2 giờ 30 ngày 13-9-1971. Không ai sống sót. Nguồn tin cho rằng phi cơ bị hoả tiển bắn hạ.
2.3. Mao Trạch Đông hạ bệ Đặng Tiểu Bình
Năm 1966.
Đặng Tiểu Bình (ĐTB) theo phe Lưu Thiếu Kỳ. Trong Cách mạng Văn Hoá, ĐTB bị cách hết các chức vụ. Từ năm 1969 đến 1972, vợ chồng ĐTB bị đưa về quản chế ở Giang Tây. Con cái tất cả đều bị đưa đi trại cải tạo.
Năm 1973.
Ngày 20-3-1973, ĐTB được phục hồi công tác, trở về Trung Nam Hải (Bắc Kinh). Giữ chức Phó chủ tịch đảng, phó thủ tướng cho Chu Ân Lai vì Chu Ân Lai làm ăn bết bát quá.
Năm 1976.
Sau khi Chu Ân Lai mất, Mao Trạch Đông lại cách chức ĐTB, chỉ còn danh hiệu đảng viên và còn hộ khẩu ở Bắc Kinh. Bị quản chế 3 tháng.
Tháng 6 năm 1976.
Sau khi "Bè Lũ Bốn Tên" bị lật đổ, ĐTB lại được phục hồi chức vụ.
Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản đã tàn sát gần 10 triệu người chỉ là để thanh trừng phe nhóm Lưu Thiếu Kỳ, sau khi Mao Trạch Đông bị mất uy tín do thất bại của Bước Đại Nhảy Vọt.
Lưu Thiếu Kỳ đã yêu cầu Mao hãy chấm dứt cuộc CMVH, đừng trừng phạt ai nữa, nếu cần, thì hãy trừng phạt Lưu nầy mà thôi.
Qua cuộc Cách Mạng Văn Hoá, Mao Trạch Đông đã đạt được mục đích là cũng cố và duy trì quyền lực.
Nhìn lại sự kiện bi thảm nầy, không có một tí gì gọi là cách mạng cả, mà cực kỳ phản văn hoá, vô nhân đạo và còn đày đoạ đến tận cùng giai cấp nghèo khổ, vô sản.
Đối với người Việt Nam, thì hầu như nhà nào ở miền Bắc cũng phải treo hình của Mao Trạch Đông và Stalin cả. Biết bao nhiêu bài thơ ca ngợi Mao của Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư...nào là: Mao Trạch Đông là mặt trời, là cứu tinh, là ngôi sao sáng nhất, là cây đại thọ, là ngọn hải đăng, là Ông hiền từ, là Bác Nhân ái, là vị lãnh tụ anh minh...
Những lời của Mao được xem là chân lý vĩnh cữu.
3* Những vụ thanh trừng trong đảng Cộng Sản Việt Nam
3.1. Những vụ hạ bệ
Bất đồng ý kiến về việc thiết lập chính sách và kế hoạch quốc gia là việc bình thường. Cùng là "đồng chí" với nhau, nếu cùng một mục đích phục vụ quốc gia dân tộc thì mọi bất đồng ý kiến có thể bàn bạc với nhau để đi đến nhất trí và thống nhất hành động. Cần gì phải kéo bè, kéo đảng để hạ độc thủ cho nhau.
Đó chẳng qua là những đám tay sai ngoại bang, Nga và Tàu. Hai quan thầy không thể sống chung hoà bình với nhau, thì bảo sao các đám đàn em làm như thế cho được?
Hồ Chí Minh gọi tình trạng đó là "Sự chia rẽ trong đảng", và trước khi nhắm mắt, viết di chúc kêu gọi đoàn kết.
Hoàng Văn Hoan sợ bị Lê Duẩn-Lê Đức Thọ thanh trừng cho nên phải chạy trốn sang Trung Cộng năm 1988.
Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn-Lê Đức Thọ đì từng bước, từ đại tướng cầm quân, đến đại tướng cầm quần chị em, rồi chả còn cái gì để cầm nữa, thì hoàn toàn bị hạ bệ và bị cô lập khỏi quyền lực. Nói không ai nghe. Viết chẳng ai trả lời.
Sinh hoạt của đảng CSVN giống như những câu chuyện trong "thâm cung bí sử" cho nên mới có những "cụm từ" cung vua, phủ chúa, thái thượng hoàng...Chỉ có những người trong cuộc tiết lộ ra ngoài thì bàng dân thiên hạ mới biết được.
Nhờ nhật ký của Đoàn Duy Thành phanh phui thì đồng bào mới biết được sự đấu đá nhau để tranh giành quyền lực giữa Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu.
Đến như Hồ Chí Minh khi về già cũng bị Duẩn-Thọ hạ bệ, loại ra khỏi quyền lực.
Trong nhật ký, Nguyễn Văn Trấn viết:
"Mà trời ơi, dưới triều đại Hồ Chí Minh, ai mà được Lê Đức Thọ để ý và có cảm tình, thì má thằng đó, đẻ nó đêm rằm tháng bảy"( tươi sáng, huy hoàng) "Tao nói cho mầy nghe, Bùi Công Trừng nói tiếp, về chuyện lão Hồ Chí Minh, tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh vô thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên viên nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, chuyện nước giao cho Nguyễn Chí Thanh. Việc đảng Statu-quo Lê Duẩn. Cái thằng tự nhiên nó muốn làm Khổng Tử nầy, khó lật nó lắm. Vì nó có công trạng ở Nam Bộ và mấy bà má ôm nó chum chủm trong lòng.
Mầy coi, coi có tội nghiệp không, đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta, bận đồ lụa gụ, chủ trì Hội nghị mà quay mặt ra sân. Có lỗ tai, tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi nghe chướng tai quá, lão quay vô, đưa tay xin nói, thì thằng Thọ "lễ phép Bắc Hà":"Bác hãy để cho anh em người ta nói đã nào".
Tao đếm lão Hồ đã đưa tay mấy lần mà lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn" (Hồi ký "Viết cho mẹ và Quốc hội, Nguyễn Văn Trấn, trang 328)
Vụ tranh chấp bộ ba "Mười-Anh-Kiệt" đã xì ra những sự việc như sau:
Lê Đức Anh là phu cạo mủ, làm việc cho Tây ở đồn điền, đã khai gian lý lịch về ngày được kết nạp vào đảng, đồng thời đã đánh đập hà hiếp công nhân cạo mủ...
Bộ ba đã cố bám lấy quyền lực, đã hết nhiệm kỳ mà vẫn cố lì ở lại làm "Thái Thượng Hoàng", tức là cố vấn cho Bộ Chính Trị TW Đảng. Bám quyền lực như Lê Đức Anh, bị tai biến mạch máu não, liệt nhẹ bán thân, mà không chịu nghỉ hưu.
Nhưng vụ ồn ào nhất là vụTổng Cục 2.
3.2. Tổng Cục 2.
Ở chức vụ thủ tướng, Võ Văn Kiệt đã ký sắc luật 96/CP nâng cục Quân báo C2 lên hàng Tổng Cục, với quyền hành to lớn bao trùm mọi sinh hoạt xã hội. Cho phép TC 2 hoạt động trong mọi ngành: chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ, môi trường, văn hoá xã hội
TC 2 chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ Chính Trị Đảng và Chủ tịch nước.
TC 2 do Trung tướng Đặng Vũ Chính làm Tổng cục trưởng và cả gia đình tham gia lãnh đạo TC.
Con rể là Tướng Nguyễn Chí Vịnh (Con của Nguyễn Chí Thanh).
Vợ là Đặng Thị Nhẫn, con trai là Đặng Vũ Dũng, con gái là Đặng Tuyết Mai, đại úy cán bộ mật.
Năm 2000, Đặng Vũ Chính nghỉ hưu, nhường chức vụ lại cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh.
Lê Khả Phiêu đã dùng TC 2 đặt máy nghe lén điện thoại những Ủy Viên BCT khác. (Ám số A-10)
Trong bức thơ đề ngày 17-6-2004 gởi cho Ban Lãnh Đạo đảng, được phổ biến rộng rãi trên Internet, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã tố giác Đặng Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh đã có những hành vi gian trá nghiêm trọng, cụ thể là bịa đặt ra một điệp viên VN giả tưởng với mã số là T-4, mà nói là đã được gài vào cơ quan tình báo CIA ở Langley, VA, Hoa Kỳ.
Mượn tay T-4 vu cáo những nhân vật quan trọng trong đảng và nhà nước, về tội làm gián điệp cho CIA.
Thủ đoạn dùng hồ sơ gián điệp giả để triệt hạ những những đối thủ chính trị trong ý đồ cũng cố quyền lực.
Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà, Võ Văn Kiệt cũng có tên trong danh sách làm gián điệp.
Nguyễn Nam Khánh nêu một sự kiện quan trọng khác, là TC 2 đã dàn dựng ra một nhân vật Năm Châu, Sáu Sứ để vu cáo Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà có âm mưu ám sát Lê Đức Anh.
Tám người trong TC 2 được đề nghị đem ra xem xét và phải làm kiểm điểm, đứng đầu danh sách là Đặng Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh.
Ngoài vụ T-4, Sáu Sứ, TC 2 còn bị nghi ngờ đến những vụ việc như sau:
- Vụ 7 tướng lãnh cao cấp, trong đó có Thượng tướng Đào Trọng Lịch, "bị chết tai nạn" trong chuyến bay công tác sang Lào.
- Đoàn cán bộ cao cấp QĐ"chết tai nạn"trong chuyến bay thăm đảo Sơn Trà.
- Cái chết đột tử của 2 đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn.
Trong vụ TC2, Lê Khả Phiêu bị khiển trách và phê bình về việc nghe lén và mất chức Tổng Bí Thư đảng.

III. KẾT LUẬN

Mục đích của thanh trừng là loại đối thủ để cũng cố và bảo vệ quyền lực. Hình thức "hợp pháp" là dùng cơ quan truyền thông trong tay, bịa chuyện, chụp mũ, bôi nhọ. Ở mức độ nặng hơn là bắt người tra tấn, mớm cung hoặc dùng cơ quan mật vụ trong tay ngụy tạo hồ sơ và cuối cùng loại đối thủ ở những kỳ Đại Hội Đảng trong mục sắp xếp lại nhân sự của Bộ Chính Trị.
Đồng thời với việc hạ uy tín đối phương là việc suy tôn mình trong chính sách sùng bái cá nhân. Stalin đã đẻ ra chính sách nầy và nó được áo dụng rập khuôn trong đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng CSVN.
Mao Trạch Đông in hàng triệu quyển sách nhỏ "Mao Tuyển", "Hồng Bảo Thư" phát cho sinh viên, nghỉ học để đi làm công tác thanh trừng. Mao lội trên sông Dương Tử rồi phổ biến rầm rộ.
Chính sách sùng bái cá nhân tạo ra một lớp người xu nịnh, lừa thầy phản bạn như Lâm Bưu.
Bịa chuyện thần thánh hoá, tạo ra nhiều huyền thoại chung quanh mình.
Mao kể lại cho nhà báo Edgar Snow về cuộc chiến đấu rực lửa của Hồng quân khi qua cầu Đại Đô rằng "sáu hàng xích sắt lớn nối hai đầu cầu được nung đỏ, phía trước là những ụ súng máy nhả đạn không ngừng, thế mà Hồng quân vẫn bò qua..." Nghe đến đây, dù người dễ tin cách mấy cũng thấy có điều không ổn, không hợp lý, không có thật. Đúng là Mao đã thần thánh hoá quân đội của mình.
Ở Việt Nam, bác Hồ đã lấy tên một người là Trần Dân Tiên, viết chuyện tự đề cao mình. Rồi cả một hệ thống tuyên truyền bịa ra nhiều chuyện, như chuyện Lê Văn Tám, là một đứa trẻ bán đậu phộng rang ở Thị Nghè, Sàigon-GiaĐịnh, tự tẩm xăng vào người, đốt lửa thành cây đuốc sống, chạy vào làm nổ tung kho đạn của giặc Pháp.
Câu chuyện được in trong sách giáo khoa xem như là tấm gương của con người thật. Thế rồi, suốt nửa thế kỷ, phổ biến bằng kịch, bằng tranh, bằng "Giải Thưởng Lê Văn Tám". Rồi đến cuối đời, trước khi chết, chính tác giả của nó phải lên tiếng cải chính là chuyện bịa 100%.
Chuyện vô lý ở chỗ là cây đuốc sống mà làm sao có thể chạy vào kho đạn mở cửa và không có người gác?
Đại Hội đảng CSVN chưa mở ra mà người ta đã biết hai ông Nông Đức Mạnh và Nguyễn Minh Triết sẽ rời bỏ chức vụ.
Thế thì cần gì phải tổ chức bầu với cử làm chi cho mất công?
Trúc Giang
Minnesota ngày 14-9-2011




__,_._,___



No comments:

Post a Comment