Phê bình | ||
|
Cuốn tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy. |
2. Rừng ruộng lấp lánh sắc màu
Màu rừng ruộng để lại những ấn tượng và những cảm xúc thẩm mỹ thật sâu đậm và phong phú. Gấp trang văn lại, tôi thấy lòng mình nao nao khôn tả. Màu rừng ruộng là một nỗi buồn mênh mang, trên nền vẻ đẹp của ngôn ngữ văn chương, vẻ đẹp cảnh sắc, con người và cuộc sống. Dù là ruộng đồng hay núi rừng, dù là dân sự hay lính tráng, dù đau thương mất mát, tất cả cứ vượt lên về phía trước. Những trang văn viết về Vinh và người cha có màu sắc cổ kính, mạnh mẽ, bên cạnh những tình cảm âm thầm đau đớn của Vinh với chị Miền, là một nỗi ngậm ngùi không sao nói lên lời, theo mãi Vinh đến cuối tác phẩm. Màu rừng ruộng có những trang hoành tráng mỹ lệ của sử thi làm nức lòng người đọc. Đó là những hồi ức về vua Quang Trung đánh tan 20 vạn quân Thanh; là đoạn tả cuộc chiến dữ dội lẫm liệt của của Krol với đàn voi. Đoạn văn này làm lộ ra bút lực mạnh mẽ, tài hoa của Đỗ Tiến Thụy đến từng câu chữ.
Đỗ Tiến Thụy làm người đọc kinh ngạc trước những tập tục kỳ lạ của người Rơ Mâm cùng với tính cách con người họ. Tục chôn người chết (tr.222), chuyện con hổ trả thù (tr.260), sự trừng phạt thằng Lục thổ dân (tr. 299) về tội hãm hiếp cô giáo Phương. Nó bị lôi ra rừng, trói vào gốc cây to, bị lột hết quần áo và tạt vào hạ bộ một ống đựng mắm cá để cho ruồi lằn và chét vét đến bâu vào, ăn trụi bộ phận sinh dục. Một hình phạt thật quyết liệt và kinh hoàng đối với kẻ phạm luật của làng. Cũng vậy, khi những người lính chở người đàn bà sinh con bị băng huyết đi cấp cứu, người dân làng Sập tưởng bộ đội làm chết người đàn bà, họ đã xua đuổi bộ đội khỏi làng. Đoàn quân ra đi lầm lũi trong cay đắng. Trái lại, cuộc tình của Vinh và Junny và giấc mơ của Vinh về Khu Rừng Say lại đầy vẻ mơ mộng lãng mạn, đem đến cho Vinh và người đọc bao nhiêu hy vọng. Vinh được ông Martin - phái đoàn MIA - sẵn sàng bảo lãnh sang Mỹ học ở bất cứ trường đại học nào, người đọc tưởng rằng rồi đây Vinh sẽ cất cánh để tài năng và mơ ước của chàng thành hiện thực.
Đỗ Tiến Thụy cũng rạch ròi xử lý tình huống. Tình và lý trọn vẹn. Đó là cách giải quyết nghĩa tình của bộ đội với người đàn bà sinh con được cấp cứu, là thái độ thẳng thắn của Vinh và ông Bổn khi trả lại Martin 1.000 USD. Ý thức và lòng tự trọng dân tộc đúng mực đã tạo nên vẻ đẹp văn hóa VN của trang văn Đỗ Tiến Thụy. Sự tương phản trong việc tìm thấy hài cốt phi công Mỹ James và mồ chôn bộ đội đặc công với cái chết bất ngờ, nát bấy thân thể vì mìn của Vinh ở cuối truyện làm người đọc choáng váng trước hiện thực khốc liệt của thời bình và bi kịch không sao vượt qua được của người trẻ đầu thời kỳ Đổi mới. Tất cả chỉ còn là giấc mơ. Người đọc cũng hồi hộp, ngậm ngùi theo dõi đơn vị của Vinh ba ngày đêm lặn suối tìm xác thằng Vọng vốc. Nó cãi lệnh và hỗn láo với người chỉ huy là ông Cải, bị ông Cải đánh một cú thôi sơn vào mặt (tr.366). Đồng đội lo lắng thấy nó lặng lẽ, rồi bỏ đi, để lại mảnh giấy “Hãy ra suối tìm xác tôi! Vĩnh biệt!”. Mãi đến khi mọi người tuyệt vọng, lập bàn thờ truy điệu thì thằng Vọng vốc mới dẫn xác về nhận lỗi đã đánh lừa anh em (tr.370). Đỗ Tiến Thụy đã viết được một cảnh bi hài xuất sắc. Nó làm bật ra một nụ cười làm nhẹ lòng người đọc nhưng lại ẩn chứa những xót xa về những vấn đề của người lính.
Quả thực, Màu rừng ruộng lấp lánh nhiều màu sắc thẩm mỹ. Điều này làm nên sự hấp dẫn của tác phẩm, đúng như anh đã dùng màu sắc để đặt tên và ẩn dấu chủ đề cho từng chương: Gió vàng, Trâu đỏ, Đất trắng, Hoa xanh, Tang hồng, Ngựa bạc, Chim đen, Làng xám, Voi sao, Mắt lơ, Hổ Vằn, Ningnơng tím, Xương rêu, Nghé nâu, Biên tái. Đọc xong từng chương, ngẫm lại tên chương, người đọc sẽ thú vị khi nhận ra chất tài hoa của ngòi bút Đỗ Tiến Thụy. Anh đã làm thăng hoa cái hiện thực mà anh miêu tả, biến cái hiện thực tím rịm nỗi buồn, xám xịt những nỗi đắng cay phũ phàng; hiện thực trắng trợt xương rêu tàn lụi chết chóc thành cái đẹp văn chương.
3. Nhìn sâu vào hiện thực mà ước mơ
Nhân vật chính của Màu rừng ruộng là Vinh. Chàng trai trẻ này bị ném vào đời, lăn lóc trong nhiều hoàn cảnh, anh trố mắt nhìn và suy gẫm, anh chán nản và bất lực. Rồi anh đắm mình vào những giấc mơ. Đỗ Tiến Thụy miêu tả nhiều giấc mơ của Vinh, có lẽ đó là lối thoát duy nhất cho sự bế tắc của Vinh chăng. Những ngày ở quê làng Bùi nghèo đói, Vinh mơ thấy mình nằm trên cánh đồng bát ngát lúa vàng, những khuôn mặt trẻ già trai gài làng Bùi vui như hội (tr.36). Vinh lại mơ thấy mình hóa thành tàu vũ trụ Phương Đông bay vào khoảng không cao vút, bầu trời đầy trăng sao lung linh. Phải chăng đó là khát vọng thoát đói nghèo, bế tắc? Trên đường hành quân vào Huế, Vinh mơ thấy vua Quang Trung đánh tan 20 vạn quân Thanh, Vinh say huyền tích, một huyền tích các đây 200 năm (tr. 146). Phải chăng hiện tại nhạt nhòa buồn tẻ, Vinh muốn sống với quá khứ hào hùng? Lúc bị bọn người lùn bắt và trói trong chuồng đầy phân trâu, Vinh mơ thấy đàn trâu làng Bùi, thấp thoáng nghé Hoa kéo những đường cày trên cánh đồng, rồi đứng gỡ những con đỉa. Ông Ét miệng nhai trầu đỏ tươi. Một lần khác, khi Vinh dạy cho Kíp tập cày, anh chán nản và mơ về quê. Hình ảnh ông Ét, nghé Hoa, Chị Miền… lại hiện ra (tr.350). Nhà ông Ét vẫn nghèo. Con nghé Hoa kiệt sức đã chết. Vinh mơ mình về thăm chị Miền. Có tiếng chị Miền hắng giọng và tiếng đập châm thùm thụp của chị gọi ông Ét vào ngủ trưa. Vinh bức bối muốn gào thét lên, nghiến răng trèo trẹo. Những giấc mơ quê ấy phải chăng là cái tình sâu nặng khôn nguôi của Vinh với làng quê, mà dù ở đâu anh cũng không dứt ra được: “từ ngày đi bộ đội, mặc dù nhớ quê hương đến cháy lòng nhưng Vinh vẫn phải lắc đầu xua đi hồi ức đau buồn” (tr.341)? Một lần khác, đêm ấy ông Bổn khó ngủ, Vinh ra nằm với ông và nghe ông kể chuyện Bãi Thú. Vinh mơ thấy mình và Junny trong Khu Rừng Say tuyệt vời. Junny mời gọi yêu thương nồng nàn nhưng Vinh từ chối vì mặc cảm nhược tiểu (tr.379). Phải chăng đó là khát vọng và bi kịch của Vinh?
Quả thực, đời Vinh cứ trôi đi với những việc bất đắc dĩ phải làm, còn lại là những giấc mơ và tâm trạng buồn miên man. Trong suốt câu chuyện, dù ở làng quê hay khi đi bộ đội, Vinh chỉ là người ngoài cuộc, người chứng kiến (tr. 304), lặng lẽ quan sát mọi sự việc đang diễn ra. Anh không có lý tưởng, không mục tiêu phấn đấu. Anh không tự thiết kế tương lai và hành động cho tương lai ấy thành hiện thực. Ngay cả việc học đại học, anh hiểu đó là mong muốn cháy bỏng của cha, là con đường tiến thân của mình. Nhưng khi được nhiều người khuyên sau khi ra quân nên đi học đại học, anh chỉ ầm ừ cho qua.
Việc tìm ra hài cốt James có phải là do tài năng, sự nỗ lực phấn đấu của Vinh không? Hôm ấy Vinh mệt mỏi, anh bỏ cuốc không đào nữa. Anh nằm nhìn hoa Pơlang bung nở, bỗng nghĩ ra ý tưởng, rằng khi máy bay bị bắn, James đã kịp nhảy dù ra khỏi máy bay (tr. 314). Từ ý tưởng đó, nhóm của Vinh thay đổi hướng tìm và đã phát hiện ra chiếc dù của James vẫn còn đeo trên cây, giữ nguyên vẹn hài cốt người phi công Mỹ. Anh được phái đoàn MIA thưởng công. Ông Martin hứa bảo lãnh Vinh sang Mỹ học. Phát hiện ấy của Vinh là một sự kiện quan trọng, hé lộ sự thông minh và tài năng của Vinh. Tuy vậy, đó chỉ là tình cờ, không phải do ý thức hay nỗ lực của Vinh. Đàng khác, trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, Vinh đành bất lực, không biết phải hành động thế nào để thoát ra. Việc Vinh đập vỡ kính xe khi phát hiện anh Sản ngủ với chị Miền, việc anh nhận phong bì 1.000 USD của Martin là những thí dụ cho thấy sự yếu kém trong nhận thức và hành động.
Phải chăng Đỗ Tiến Thụy cố ý xây dựng Vinh là nhân vật bi kịch của người trẻ ở nông thôn? Vinh là nhân vật dật dờ không hồn cốt, không tư tưởng. Mặc dù được cha hun đúc ý chí, mặc dù được tôi luyện trong quân ngũ, mặc dù có những cơ hội thăng tiến, nhưng Vinh hoàn toàn buông xuôi. Ngay cả trong bộ đội, nơi mà Vinh tình nguyện đi để thoát khỏi sự tù túng nghèo nàn của nông thôn, thì nơi ấy, dù không gian hành quân là mênh mông, Vinh vẫn dật dờ. “Ông Cải kết luận Vinh mắc bệnh nhiễu tư tưởng nên đã điều cậu sang bộ phận nuôi quân, có nhiệm vụ hàng ngày đi đánh cá cải thiện cho đội” (tr 283). Khi bị chuyển sang bộ phận nuôi quân, Vinh im lặng chấp hành lệnh (tr. 344). Cuối truyện, Đỗ Tiến Thụy để Vinh chết thê thảm với ước mơ được chôn ở Khu Rừng Say. Sự tương phản ấy có tạo ra hơi hướng bi kịch, nhưng đó là bi kịch giả. Bởi Vinh đã từ chối tình yêu của Junny, thì Khu Rừng Say còn ý nghĩa gì, vả lại Khu Rừng Say là không có thực, vì thế ước mơ của Vinh cũng là vô nghĩa. Sự thật là, hồn vía của Vinh là ở làng quê với chị Miền, nhưng chị Miền đã an phận từ lâu, bây giờ chị đã khác, đã quấn lấy lão Ét, cả ban ngày ban mặt, khiến lão quá sức, chết trên bụng Miền (tr. 357), vậy Vinh còn gì? Cái chết của Vinh có tạo ra sự ngậm ngùi xót thương, nhưng chỉ là sự rủi ro do bất cẩn của người chỉ huy. Cái chết ấy không phải hy sinh vì nghĩa lớn như người lính năm xưa. Có lẽ vì thế mà nhân vật Vinh trở nên xa lạ. Xa lạ với cả người lính năm xưa như ông Cải, ông Bồn và xa lạ với trẻ hôm nay, như anh Sản, cô bạn tên Vinh cùng phòng thi đại học. Vinh xa lạ với những con người đang hăm hở, quay cuồng trong đời sống thực dụng?
Nếu nhân vật Vinh không có cá tính đặc sắc, không được xây dựng thành một nhân vật tư tưởng thì ngòi bút Đỗ Tiến Thụy lại rất sinh động, sắc sảo khi khắc họa các nhân vật như ông Ét, anh Sản, già Nuk, Lục thổ dân. Họ để lại những ấn tượng sâu đậm về những số phận, những cảnh đời, về kiểu nhân vật mà trước đây chưa có. Tất cả những nhân vật ấy đều có cái chết vừa đáng thương, vừa đáng tội. Ông Ét là một khiểu người cũ của nông thôn, người cản trở việc đưa máy cày về đồng, người đã cướp mất chị Miền của Vinh. Gần sáu mươi tuổi, đã có gần chục đứa con gái nhưng ông Ét bị sức ép nặng nề của quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, bị dòng họ ép cưới vợ mới khi vợ cũ vừa chết vì kiệt sức sau cơn vượt cạn quá sức. Cưới được vợ mới, ông cố sức thực hiện ước mơ có con trai đến nỗi bị thượng mã phong chết trên bụng chị Miền. Sản từng là người hướng dẫn Vinh, nhưng cũng là người gây cho Vinh những vết thương không sao hàn gắn được. Vinh phát hiện ra chị Miền ngủ với Sản trong cabin, và sau này Sản lại quan hệ với chị Sự. Sản bị bọn thanh niên chặn đánh. Xe anh bị đứt thắng (phanh) lao từ đê cao xuống sông. Trước khi chết, Sản còn bảo chị Sự nhờ công an điều tra. Già Nuk là một con người kỳ lạ, dũng mãnh và đầy uy lực. Làng của lão bị bom Mỹ tàn phá, lão bị bom chém cụt cả hai chân tới háng. Lão đã quyết liệt đuổi khỏi làng đứa con gái của mình là nàng Ythan với cái thai trong bụng khi cô phạm luật (tr.233). Lão cũng lạnh lùng xử phạt thằng Lục thổ dân khi nó hãm hiếp cô giáo Phương (tr. 298) và đuổi đơn vị bộ đội khỏi làng Sập (tr. 336). Lục thổ dân quê ở Thái Bình, nó bỏ làng phiêu bạt vào rừng gần chục năm. Nó khoe có đường dây khai thác và tiêu thụ lâm thổ sản lớn. Nó dụ Vinh hợp tác làm ăn. Cả anh Quân và Vinh đã theo hắn vào rừng lấy vàng đắng (tr. 206). Nó cũng lợi dụng việc Kíp không biết chữ nhờ nó đọc thư cô giáo Phương gửi Kíp. Nó đã hãm hiếp dã man cô giáo Phương ở bờ suối, để rồi bị già Nuk ra lệnh đem ra ngoài rừng xử theo luật của làng...
4. Và những vấn đề...
Những nhân vật của Đỗ Tiến Thụy sở dĩ gây được những ấn tượng là vì qua họ, anh đặt ra được những vấn đề, dù đã là quá vãng, nhưng đến nay vẫn còn bám lấy đời sống chúng ta. Già Nuk và làng Sập cùng sự mai một dần người Rơ Mân là không sao cứu vãn được. Cần phải làm gì để cứu giúp họ? Làng Sập 400 người bị bom Mỹ còn 81 người. Bệnh sốt rét, hủ tục, cách sống thiếu khoa học khiến họ cứ chết dần. Cái ghè đựng những hòn sỏi đen đánh dấu số người chết mỗi ngày một nhiều hơn. Khi ông Nuk chết, tiếng sỏi rơi vào đáy ghè làm Vinh rợn cả người (tr.340)
Nhân vật chị Miền, chị Sự (tr. 354, 355), YThan (chương Voi Sao), người đàn bà Rơ Mân (vợ Đéc) sinh con bị băng huyết (tr.306), người đàn bà mới mổ ruột thừa năn nỉ Vinh đi khách ở sân ga (tr.152), cô giáo Phương,… là thân phận phụ nữ chứa đựng những vấn đề làm nhức nhối trái tim người đọc (2). Cô giáo Phương tình nguyện đi vùng sâu vùng xa, đã cắm bản 3 năm, muốn về xuôi thì phải ngủ với tay trưởng phòng (tr.293), để rồi sau cùng bị thằng Lục thổ dân hiếp dã man bên suối, tan nát hết mọi hy vọng để sống ở đời. Cô bị trầm uất không gượng lại được. Nàng YThan xinh đẹp, con của Nuk, có khát vọng yêu thương cháy bỏng với Krol. Tình yêu ấy bị vùi dập do hủ tục. YThan bị cha đuổi khỏi làng khi đang mang thai, sau chết trong một trận dịch (tr. 235). Số phận của chị Miền cay đắng muôn phần. Chị Miền 26 tuổi, đẹp nhất làng Bùi. Chị bị coi là ế vì bố chị là ông Sùng thách cưới “bảy mươi cân thịt (lợn) móc hàm”, nhà trai không lo được. Chị chấp nhận ăn nằm với Sản để được đi khỏi cái làng Bùi nghèo khổ (tr. 65). Số phận cứ quấn lấy chị, sau chị bị ép lấy lão Ét để nuôi 9 đứa con cho lão (tr. 116). Cuối cùng thì lão Ét đã chết trên bụng chị, dân làng phải gói hai người vào chăn khiêng ra trạm xá (tr. 356). Đọc đoạn người đàn bà mổ ruột thừa mồi chài Vọng và Vinh đi khách ở sân ga, những ai còn chút thiện tâm không thể không mủi lòng:
“- Dù hôn hai ăn?...
- Bao nhiêu…
- Cho tui xin năm ngèng nghe ăn hai?
Vinh giãy nảy lên vì sợ.
- Thì ba ngèng được hôn ?... hay hai ngèng cũng được. Hai ăn chơi dùm tui đi.
Trước vẻ mặt khẩn nài của người đàn bà ăn sương, Vinh thấy mình bất nhân quá thể… Bà vội vàng túm xoắn lấy cánh tay Vinh van vỉ:
- Tui bị mổ ruột thừa, mới ở nhà thương dìa mấy bữa nay. Từ hồi hôm đến giờ hổng có chi ăn. Hai cậu chơi dùm, cho tui xin gói mì tôm nghe hai cậu? năn nỉ mà, hai cậu ơi!.
Vừa nói, người đàn bà vừa vén áo. Một vết mổ dài còn đắp gạc trắng chạy dọc theo cái lườn lép kẹp”(tr.153)
Màu rừng ruộng đã chạm vào được nhiều vấn đề của thực tiễn. Hình tượng nghệ thuật của Đỗ Tiến Thụy chứa đựng vấn đề có sức ám ảnh. Đó là tình trạng đói nghèo, lạc hậu của nông thôn, tình trạng thất nghiệp, bế tắc của thanh niên nông thôn. Vấn đề khoán 10 (tr.355), Những tiêu cực trong thi cử (tr 93-98), trong giáo dục (tr.293), hậu quả của chất độc da cam (tr.374), những người lính thời hậu chiến đi quy tập hài cốt đồng đội và tham gia công tác nhân đạo tìm hài cốt lính Mỹ (chương Xương Rêu và Biên Tái), tinh thần hòa giải Việt - Mỹ. Đỗ Tiến Thụy đã giải quyết trọn vẹn tình nghĩa vấn đề tìm hài cốt lính Mỹ và hài cốt đồng đội, cứu được mạng sống của mẹ con vợ Đéc trả lại cho dân làng Sập. Nhưng còn nhiều vấn đề không có câu trả lời, hoặc có kết cục dở dang, tạo nên nỗi buồn thấm thía trong lòng người đọc. Đó là cuộc đời và cái chết của Vinh, với những khát vọng chỉ có trong mơ; cuộc đời cô giáo Phương làm sao gượng dậy được; số phận chị Sự, chị Miền bao giờ thoát khỏi những thảm cảnh phụ nữ; làm gì để bộ tộc Rơ Mâm khỏi bị diệt vong. Nông thôn Việt Nam đến bao giờ mới thoát khỏi đói nghèo. Con đường nào giúp người trẻ nông thôn vào đời? Giải quyết thế nào tình trạng thất nghiệp?
Tất nhiên là người đọc không thể đòi hỏi nhà văn phải giải quyết cho được những vấn để đặt ra, bởi đó là những vấn đề xã hội. Điều quan trọng là nhà văn đã nhìn hiện thực thế nào, trái tim nhà văn rung cảm thế nào trước những bức bối ngổn ngang, và bằng hình tượng văn chương, nhà văn có đánh thức được trái tim người đọc về những vấn đề ấy hay không. ĐọcMàu rừng ruộng, người đọc cảm nhận được mối ưu tư đau đáu của nhà văn với từng cây cỏ ruộng đồng, từng số phận con người quê hương, đồng đội, và với đồng bào, dân tộc mình. Đỗ Tiến Thụy không chỉ quan sát, ghi nhận cả cái tốt đẹp và cái nhiễu nhương, mà còn sống với những nỗi niềm ấy trong cả giấc mơ của Vinh. Vinh mơ về quê hương với đồng lúa chín vàng, mơ bay cao bay xa vào bầu trời đầy tinh tú, mơ cùng với Junny nồng nàn đằm đắm trong Khu Rừng Say, thế giới của cái đẹp và tình yêu, mơ về một thời hào hùng của lịch sử dân tộc khi Quang Trung ra Bắc đánh bại 20 vạn quân Thanh.
5. Đâu là thế mạnh của ngòi bút Đỗ Tiến Thụy
Ngòi bút của Đỗ Tiến Thụy đã sáng tạo được những hình tượng đủ sức gây ám ảnh người đọc về những vấn đề anh nêu ra. Đỗ Tiến Thụy nói rằng “Tất cả sáng tác của tôi đều là những gì tôi đã trải nghiệm", vì thế có ý kiến cho rằng thế mạnh của anh là ở vốn sống làng quê. Quả thực Đỗ Tiến Thụy đã huy động một vốn sống thật dồi dào trong Màu rừng ruộng. Anh đã sống trên cánh đồng với con trâu, máy cày, đám trẻ nheo nhóc, những cô gái ế chồng, những tảo hôn, ép hôn và những thân phận lầm lũi không ngóc đầu lên được ở nông thôn; anh đã chứng kiến những tập tục và sinh hoạt lạ lùng, thê thảm của người Rơ Mâm Tây Nguyên; anh lăn lộn nơi núi rừng với người lính thời hậu chiến, với tất cả nỗi vất vả, mệt mỏi, chán nản và bức xúc muốn bùng lên; Anh đã phải dấn thân vào chuyện học hành, thi cử xô bồ bát nháo; và hẳn đã tự hào với những chuyện lịch sử hào hùng của dân tộc, đắm mình trong truyền thuyết kỳ lạ về Bãi Thú, chịu đựng mưa bom bão đạn trong những trận đánh khốc liệt thời kháng chiến chống Mỹ. Có thể anh cũng đã từng theo chân những chuyến ăn hàng đêm trong rừng của bọn buôn lậu...
Nhận định về chỗ yếu của nhà văn trẻ, nhiều người cho rằng họ thiếu vốn sống. Đỗ Tiến Thụy làm ngạc nhiên chúng ta về vốn sống và những trải nghiệm dồi dào của anh. Và như thế, anh đã vượt lên trước so với đồng nghiệp. Tuy nhiên, cần lưu ý điều này, vốn sống là chất liệu quý và cần thiết cho sáng tạo, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Mỗi khi mở cửa hướng ra bên ngoài, ai cũng thấy cuộc sống đã bày ra trước mắt, có sẵn bao nhiêu điều có thể viết. Nhưng đâu phải ai cũng viết được, không phải cứ viết được là viết hay. Đấy là chỗ bí mật của tài năng. Nhiều nhà văn đã trải đời lăn lộn trong cả hai cuộc kháng chiến, vậy mà vẫn không viết được tác phẩm hay, tác phẩm giá trị? Rõ ràng không phải là vốn sống, mà tài năng văn chương mới làm nên tác phẩm. Chỉ khi anh có được ý tưởng sáng tạo, đã nghiền ngẫm đau đáu một vấn đề, đã manh nha được đầu mối của một câu chuyện, và cảm hứng ập đến khiến cho ngòi bút anh say ngất ngư như người lên đồng, lúc ấy anh mới huy động vốn sống, bút pháp để biến ý tưởng sáng tạo thành tác phẩm. Lại còn cần đến cái riêng, cái độc đáo phong cách nữa thì mới làm nên nhà văn. Cho nên, lấy vốn sống làm tiêu chí để đánh giá tài năng văn chương của một nhà văn thì sẽ không lý giải được cá tính sáng tạo của nhà văn. Và nếu cứ bám vào vốn sống, thì một đời nhà văn sẽ viết được mấy tác phẩm? Bởi vì mỗi lần viết xong một tác phẩm là hết vốn, lại phải mất hàng chục năm để sống một kiếp người khác mới viết được. Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là năng lực sáng tạo của anh ta.
Tôi thấy ngòi bút của Đỗ Tiến Thụy có một tiềm năng sáng tạo dồi dào giúp anh có thể băng mình về phía trước trên con đường sáng tạo. Nhà văn, trước hết là người viết văn. Đỗ Tiến Thụy có khả năng viết những trang văn trần trụi, những trang văn lãng mạn, những trang văn hào hùng, những trang bi thương, những trang khôi hài, những trang căng thẳng, những trang ngậm ngùi... Câu chữ của anh mộc mạc nhưng có máu và có lửa. Câu chữ ấy có sức lay động bởi bút lực của anh mạnh mẽ. Nhà văn cũng là người kể chuyện. Thành bại của nhà văn là ở câu chuyện anh kể có hấp dẫn không, có hay không, có để lại ấn tượng gì không. Ở Màu rừng ruộng, Đỗ Tiến Thụy đạt được yêu cầu này. Tập truyện 388 trang với nhiều sự việc, con người, tình tiết nhưng anh kể rất mạch lạc, gắn kết, hấp dẫn. Chương này gọi chương kia, chương này kết nối với chương kia bằng nhiều yếu tố. Tư duy nghệ thuật của Đỗ Tiến Thụy tầng tầng lớp lớp. Chẳng hạn, bằng sự liên tưởng, bằng ước mơ, bằng thư từ... Đỗ Tiến Thụy đã kết nối cuộc sống đồng ruộng của Vinh ngày trước với cuộc sống lính tráng núi rừng của Vinh ở hiện tại. Những mảnh đời, những cảnh vật tình huống khác nhau được đan kết thành một cấu trúc thống nhất tạo nên thế giới nghệ thuật. Đỗ Tiến Thụy có khả năng mở rộng biên độ không gian và thời gian, có khả năng tổng hợp trong tác phẩm nhiều kiểu bút pháp, dù rằng bút pháp hiện thực vẫn là chủ đạo.
Và điều quan trọng đối với phẩm chất của một nhà văn là năng lực sáng tạo. Vốn sống chỉ là chất liệu. Sử dụng vốn sống thế nào để tạo nên thế giới nghệ thuật mới là vấn đề. Đỗ Tiến Thụy kể, mười bảy tuổi anh nhập ngũ, đóng quân ở Tây Nguyên. Xung quanh thị xã Kontum còn đầy bom mìn. Ngày nào cũng có thú vật và người vướng mìn chết. “đau hơn cả chính những người bạn của tôi nữa vấp phải những quả mìn sót lại. Tôi không thể quên được ngày hai người đồng hương của tôi thân thể nát bấy, máu tuôn xối xả sau một tiếng nổ kinh hoàng". Hẳn chi tiết đời thực này đã được Đỗ Tiến Thụy tái tạo đưa vào Màu rừng ruộng để viết về cái chết của Vinh, góp phần tạo nên ý nghĩa nghệ thuật cho nhân vật. Tiếng nói tâm huyết của tác giả có sức âm vang: “Một ánh chớp khác đã bùng lên! Không nghe thấy tiếng nổ, chỉ thấy mặt đất giật mạnh một cái kinh người, hất tôi bật ngửa. Trong tích tắc ấy tôi dường như nghe đồng thời cả mấy chục tiếng hét của con người và tiếng ré lên của muôn chim muông giật mình hoảng loạn. Cơn choáng chưa tan tôi đã hãi hùng bò lê đến bên miệng hố. Một cảnh tượng đau đớn điếng hồn xói mạnh vào ngực tôi nghẹt thở. Vinh đang quằn quại dưới hố! Chúng tôi gào gọi không ra tiếng, khóc không ra tiếng, lắc lay cái thi thể nát bấy của Vinh. Sao lại thế này hở giời?”(tr.387).
Đỗ Tiến Thụy đã tái hiện một cảnh đời thường anh gặp thành một chi tiết nghệ thuật thật sống động, bùng nổ cảm xúc. Màu rừng ruộng có nhiều chi tiết được tái hiện tài năng như vậy, làm cho không gian tiểu thuyết trở nên đầy đặn, sống thực. Hơn thế, trong Màu rừng ruộng có những chương được viết bằng năng lực sáng tạo thật dồi dào. Đó là chương kể lại câu chuyện Krol quyết chiến với đàn voi rừng để bắt cho được con voi sao. Trận chiến dữ dội suốt một ngày. Sau cùng chàng tử trận (tr. 277-282). Chắc chắn đây là một cảnh sáng tạo, bởi không dễ gì Đỗ Tiến Thụy được tham gia, chứng kiến một cảnh thật trong đời thường kỳ vĩ đến như thế. Văn của anh lấp lánh chất sử thi. Cảnh gặp gỡ Vinh và Junny trước lúc chia tay (tr.324) và cảnh Vinh mơ thấy Junny ở Khu Rừng Say (tr. 378) là những cảnh dẫn người đọc vào thế giới của những cảm xúc lãng mạn. Ngôn ngữ Đỗ Tiến Thụy giàu chất thơ, đối thoại trí tuệ tỉnh táo và cách viết tinh tế. Đỗ Tiến Thụy phối hợp được sức tưởng tượng bay bổng với tri thức về người Mỹ, lòng tự trọng dân tộc và cách diễn đạt tình yêu nửa như thực nửa hư, tạo ra sự thú vị bất tuyệt, âm vang sâu xa trong lòng người đọc. Tuy Đỗ Tiến Thụy chưa có cách tân về bút pháp, nhưng cũng cần ghi nhận điều này ở Màu rừng ruộng, anh đã thay đổi nhiều góc độ trần thuật, khiến cho người đọc có lúc ngỡ ngàng hạnh phúc khi phát hiện ra tác giả đã dẫn mình đi một lối khác để thâm nhập vào câu chuyện anh đang kể. Chẳng hạn, từ đầu truyện đến cuối, người đọc ngỡ Vinh là người kể truyện, xen kẽ chương này chương kia, các nhân vật khác kể. Đến cuối, người kể là anh Tấn, người đọc ngộ ra rằng Vinh đã chết. Và đến đây, lại ngộ ra lần nữa, câu chuyện không phải do Vinh kể trực tiếp mà do tác giả kể lại từ một cuốn sổ dày của một liệt sĩ (tr.384).
Dù sao cũng cần thấy hạn chế này, Đỗ Tiến Thụy cũng như nhiều nhà văn Việt Nam khác vẫn chưa thoát ra được sự quấn xiết của chủ nghĩa hiện thực, vẫn viết để phản ánh hiện thực, chưa có những cách tân nghệ thuật thực sự để nâng tiểu thuyết Việt Nam lên sánh ngang với văn chương thế giới. Bám vào cái phao hiện thực để viết, nhà văn nổi trôi theo hiện thực và khi hiện thực bị vượt qua, tác phẩm không còn chỗ để tồn tại.
Đỗ Tiến Thụy nói rằng: “Tạng của tôi hợp với chất quê kiểng. Chỉ khi viết về nông thôn với những người nông dân nghèo khó, ngòi bút của tôi mới thấy rưng rưng. Những nhân vật của tôi phần lớn đều bắt nguồn từ những nguyên mẫu ngoài đời, có quan hệ thiết thân với tôi, thế nên mình cứ như rút ruột ra mà viết”. Tôi tin rằng những gì Đỗ Tiến Thụy rút ruột viết ra rồi sẽ làm nên giá trị văn chương của anh. Tôi đã thấy thấp thoáng ở văn anh, cái đau đớn hồn hậu của Nam Cao, cái tài hoa lấp lánh của Nguyễn Minh Châu, cái sâu sắc thanh nhã của nhà văn Bắc Hà. Và tôi hy vọng, anh có thể sẽ là người đi tiếp được con đường sáng tạo khổ ải nhưng vẻ vang của những nhà văn đi trước. Bởi anh viết văn bằng tài năng và một tấm lòng chân thực.
Đỗ Tiến Thụy Sinh ngày 12/10/1970. Quê ở Tốt Động, Chương Mỹ, Hà Tây. Tốt nghiệp Khoa sáng tác - Lý luận phê bình văn học, ĐH Văn hóa Hà Nội (2002-2006). Tác phẩm: Gió đồng se sắt(tập truyện ngắn ) - NXB Thanh niên 2005; Màu rừng ruộng (tiểu thuyết) – NXB Trẻ 2006; Vết thương thành thị (tập truyện ngắn), NXB Trẻ 2009; Những nốt nhạc xa xanh (tập truyện ngắn), NXB QĐND 2010; Người đàn bà đợi mưa (tập truyện ngắn), NXB Văn học 2010. |
Tháng 2/ 2011
No comments:
Post a Comment