CHỦ NHẬT, 12 THÁNG 4 2009 08:52 ASHUI.COM
Những thập kỷ gần đây, xu hướng hội nhập kinh tế, văn hóa xã hội tòan cầu một mặt đã dẫn tới một dạng chủ nghĩa quốc tế trên mọi lĩnh vực, mặt khác cũng làm nổi rõ nhu cầu về một bản sắc địa phương. Bởi vì nếu không có những điểm chung nhất định thì không thể giao lưu, nhưng nếu không có cái riêng thì không có nhu cầu về trao đổi.
Ở nước ta, chủ nghĩa địa phương đó được phát động dưới dạng hàng lọat phong trào tìm lại, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Về tâm linh, chúng ta đã khôi phục, bảo tồn và tôn tạo hàng lọat đền chùa miếu mạo và làm thêm rất nhiều công trình mới, khôi phục những lễ hội truyền thống và hệ thống văn hóa phi vật thể. Về vật chất, chúng ta dựng lại và làm mới một hệ thống hàng ngàn làng nghề thủ công truyền thống trên tòan quốc. Tất cả những nỗ lực đó đều là rất đáng quý và góp phần không nhỏ vào việc tạo ra và nâng cao ý thức về bản sắc truyền thống trong xã hội. Tuy nhiên, những giải pháp thời kỳ này mang nặng tính hình thức và lượng hơn là chiều sâu. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn mời mọi người tham gia vào một diễn đàn theo hướng về nội dung hơn.
Chùa Tây Phương (ảnh chụp trong chuyến tham quan do Hội KTS HN tổ chức tháng 4/2009)
1 - Tính đại khái trong lĩnh vực tâm linh:
Chúng ta đều thống nhất quan điểm về 3 tôn giáo chính là Phật, Nho, Lão là nền tảng tín ngưỡng Việt nam, ngòai ra chúng ta có các dòng Thiên chúa giáo, Cao đài Hòa hảo, những tín ngưỡng thờ thần, thành hòang, tổ nghề, thờ gia tiên, những tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số. Có điều là trừ các nhà thờ thiên chúa giáo, Cao Đài thì tất cả những công trình tôn giáo còn lại đều na ná như nhau, về kiến trúc, nội thất cũng như cung cách cúng bái. Rất nhiều người tự hào cho rằng bản sắc Việt nam chính là chỗ tiêu hóa những món ăn tín ngưỡng ngọai lai và biến nó thành của mình. Nhưng cái của mình đó là cái gì thì chưa thấy ai nói được rõ ràng và thuyết phục. Đa số nều nói chúng có cái nét xuề xòa dân gian, giản dị mộc mạc v.v...
Chi tiết điêu khắc gỗ trong kiến trúc đình Tây Đằng (ảnh chụp trong chuyến tham quan do Hội KTS HN tổ chức tháng 4/2009)
Thực ra tất cả các tín ngưỡng xét đến kỳ cùng cao đạo của tâm linh có rất nhiều điểm tương đồng, nhưng ở mức từ trung bình trở lên là rất khác nhau về bản sắc, triết lý, còn ở mức nhận thức hết sức thấp và hời hợt thì lại giống nhau và đều có sắc thái mê tín dị đoan. Một vị phật, một chân nhân có thể chỉ nhìn vào một cái cây mà ngộ ra được nguyên lý chung của cả vũ trụ. Một nhà thực vật học uyên bác có thể vào rừng mà nhìn thấy hàng chục ngàn lòai cây khác nhau. Còn một người thường không hiểu biết thì vào rừng chỉ thấy tòan cây, vì vậy việc đi cả ngày trong rừng hay ngồi ở nhà với một cây cũng là như nhau. Trở lại vấn đề bản sắc tín ngưỡng Việt nam, điều chắc chắn là chúng ta không thể tòan các vị chân nhân giác ngộ được, vậy thì cái gọi là tiêu hóa hàng nhập kia thực tế không phải là tiêu hóa, mà chỉ là nhìn chúng bằng một mắt kính thiển cận. Giống như một người tai chỉ phân biệt được hai ba âm thanh thì nhạc nào nghe chẳng giống nhau, mắt chỉ nhận biết được hai ba màu sắc thì hội họa nào mà chẳng thế. Nếu bản chất của đền chùa miếu mạo chỉ đơn thuần là những nhà chứa tượng, có chỗ thắp hương và bày mâm đồ cúng thì đạo nào mà chẳng tương tự như nhau.
Tuy triết lý thần học mờ mịt, nhưng qua hàng ngàn năm đúc kết, học hỏi nơi nọ nơi kia, và đặc biệt do quá trình xây dựng thường là rất lâu dài, trong quá trình đó có sự góp ý, tranh luận của cộng đồng về từng nét chạm, từng mộng nối nên chí ít những công trình tôn giáo cổ truyền thực sự cũng có nhiều giá trị nói lên quan điểm thẩm mỹ, tín ngưỡng cũng như mong mỏi của người dân. Trong khi đó ngày nay, với niềm tin ngây thơ rằng chính sự xuề xòa trong triết lý là bản sắc dân tộc và nguồn tài lực lớn hơn xưa nhiều, người ta đã ồ ạt cho ra mắt những công trình tín ngưỡng theo phong cách tạp giao với quy mô ngày một lớn hơn, từ những công trình nhỏ nhưng quan trọng như nhà Quản trang ở Nghĩa trang Hàng Dương, Chùa đồng trên núi Yên tử tới những công trình lớn hơn như đền thờ Lạc Long Quân, khu đền Củ Chi, khu chùa Tây thiên, khu chùa Bái Đính. Ngay những di tích lịch sử quan trọng cũng bị sửa đổi một cách nhẹ dạ như chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc, Chùa Võng Thị, chùa Trăm gian v.v... Ở đây, người thiết kế, thi công không mấy quan tâm đến tín ngưỡng, còn người sử dụng thì vừa ít tín ngưỡng, vừa không được tham gia góp ý.
Giáo đường Ánh Sáng, Osaka - KTS Tadao Ando
Nhìn sang Nhật bản, đặc biệt những công trình của Ando Tadao, hay nhìn sang châu Âu, châu Mỹ, chúng ta càng nhận rõ là người ta vẫn có thể xây mới những chùa chiền, nhà thờ nhưng mỗi thời kỳ phải có ngôn ngữ của nó chứ không đơn giản là lấy nguyên kiến trúc cổ rồi biến hóa cho to hơn, thay mái ngói bằng giả ngói, thay cột gỗ bằng cột bê tông giả gỗ v.v. Và đặc biệt là mỗi tôn giáo lại phải có bản sắc của nó, dựa trên những nghiên cứu sâu sắc về triết lý, thẩm mỹ, thông điệp nhân văn của nó cũng như những họat động hành lễ.
Chúng ta chỉ có thể xây dựng những công trình tín ngưỡng dựa trên cơ sở tồn tại của tín ngưỡng chứ không thể bù đắp cho sự thiếu hụt về tín ngưỡng bằng những công trình ngày một to. Đối với một tín đồ thực sự, thánh địa tôn giáo là nơi giúp anh ta tiếp cận dễ dàng hơn và củng cố niềm tin, còn đối với những người mê tín thì những sự cúng tế này là một thủ tục họ làm để có thể yên tâm làm những việc bon chen hàng ngày mà không cần phải tự chất vấn lương tâm, giống như xin giấy phép nhập hàng lậu vậy. Vì thế trong một xã hội mà tín ngưỡng gốc không được vun đắp thì càng nhiều đền chùa mới càng suy đồi tâm linh. Hiện nay ở Việt nam, tín ngưỡng đang có nguy cơ trở thành ngành kinh doanh dịch vụ đơn thuần. Để tiện cho người miền nam thì người ta làm thêm một Đền Hùng trong nam. Cứ theo logic như vậy thì có ngày các vua Hùng phải về phục vụ từng tỉnh, từng huyện. Để đỡ phải vất vả thì ngừơi ta làm cáp treo lên Yên tử, lên chùa Hương. Nhiều dự án kinh doanh bất động sản tư nhân cũng có thể xây chùa, xây phủ, miếu để câu khách. Đền chùa nào cũng cố khoe nào là chuông nặng nhất nước, nào là tháp cao nhất, cột to nhất, rồi nhiều phòng nhất, nhiều cửa nhất v.v... Tất cả đều giống những quảng cáo dân dụng chứ chẳng liên quan gì đến lĩnh vực tâm linh.
- Ảnh bên : Lễ hội Đền Hùng (ảnh: TT&VH)
Nhân lại nói đến việc khánh thành khu đền thờ quốc tổ Lạc Long Quân. Nếu người ta chịu khó tìm hiểu cách tạo bản sắc cho câu truyện tín ngưỡng này thì hẳn phải nhớ chuyện năm mươi người con theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên rừng. Vậy thì đền thờ Lạc Long Quân hẳn phải ở biển, ở nước chứ không thể trên núi. Ngòai ra, việc xây đền ở đâu, thậm chí có xây đền không cũng không quan trọng bằng ý thức được rằng quốc tổ chính là vị thần nước, và biển, nước là một phần của văn hóa chúng ta. Vậy mà nay nghe ngân hàng thế giới cảnh báo Việt nam là một trong 5 nước sẽ bị thiệt hại lớn nhất thế giới do nguy cơ nước biển dâng, mà trung tâm thiệt hại là đồng bằng sông Cửu long, một nơi có truyền thống ngàn đời sống với mùa nước nổi. Đa số dân tộc ta sống ở các đồng bằng châu thổ và ven biển, vốn đã quen thích nghi với nước. Chỉ mới mấy chục năm gần đây do quy họach đô thị thiếu chiến lược mà đại đa số các thành phố đã bị đẩy vào thế cắt khỏi hệ thống nước mà trở thành bị nước đe dọa. Hỡi ôi, nếu dân tộc này mà bị nước ngập làm hại thì khác nào lòai cá tự vứt bỏ mang để rồi đến nỗi chết đuối trong nước, lập đền thờ tổ thì cũng có ích lợi gì.
Tương tự thì thông điệp của một khu đền thờ Lý Thái Tổ là gì. Nếu chỉ là để nhắc nhở rằng ông là người đầu tiên quyết định thủ đô nước ta ở Hà nội và rằng Hà nội đã có 1000 năm tuổi thì có cần hẳn một ngôi đền không. Hồ Gươm có liên quan gì trực tiếp đến câu chuyện rời đô của Lý Công Uẩn hay không mà định đặt ngôi đền này bên hồ Gươm. Sự tích trả Gươm ở hồ này đã quá đậm bản sắc và Lê Lợi có liên hệ mật thiết với hồ này hơn hẳn Lý Công Uẩn. Có người nói tầm nhìn của Lý Công Uẩn trong chiếu rời đô giống như tầm nhìn quy họach mở rộng Hà nội ngày nay đến tận núi Ba vì, vậy thì có thể đặt đền trên núi Ba Vì. Lại cũng có thể đặt bên sông Hồng, vì sông Hồng chắc chắn là một yếu tố trong thế đất sông trước núi sau, rồng chầu hổ phục mà vua Lý đã nói đến khi nghĩ chuyện rời đô về Thăng Long. Và có lẽ con Rồng trong chữ Thăng long nhiều phần cũng xuất phát từ cảm hứng về sông Hồng. Tuy nhiên, dù đặt đền ở đâu và có xây đền hay không cũng không quan trọng bằng câu chuyện của chiếu rời đô chính là câu chuyện về núi sông hùng vĩ, về hội tụ nhân tài ở chốn kinh kỳ đô hội. Và câu hỏi đặt ra là câu chuyện này sẽ tiếp diễn thế nào trong một ngàn năm tới.
Hình ảnh hội Lim 2009
Ngòai những di tích lịch sử ra, các yếu tố văn hóa phi vật thể cũng được khai thác rầm rộ. Đâu đâu cũng trẩy hội, làng nào cũng rước sách rất là long trọng. Dù những làng nhỏ nhất cũng muốn khuếch trương ngày hội và tìm cách hấp dẫn đông đảo du khách thập phương. Và ở đây, chúng ta cũng bắt gặp một sự xô bồ, thiếu chất lượng. Từ những lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất và đậm bản sắc nhất như hội chùa Hương, hội chùa Thầy, hội Yên tử, giỗ tổ Hùng Vương, chợ Viềng, hội Lim v.v... đều không tập trung vào tôn tạo những nét đặc trưng. Hội chùa thì rượu thịt xô bồ, hội chợ thì buôn điêu bán đắt, hội hát thì vặn băng cát xét v.v... Và hội nào thì cũng bán hàng trung quốc rởm, quảng cáo hò hét om xòm, chơi bời đỏ đen, hoặc bày những trò tương tự như liếm đít chảo, leo cột mỡ, chẳng ra thể thống gì. Có những thứ đúng là có bản sắc, và cũng là truyền thống ở một số vùng nhất định, nhưng vẫn nên cân nhắc xem có nên tiếp diễn hay không, chẳng hạn như hội chọi trâu. Cứ nói là tinh thần thượng võ, là vui mừng ngày mùa v.v... nhưng thực ra là trò man rợ và bất nhân bạc ác. Con trâu là bạn nhà nông, trong văn hóa lúa nước, hình ảnh con trâu và người nông dân, con trâu và trẻ mục đồng luôn là tình cảm trìu mến, yêu thương, làm gì có trò đem trâu đi chọi máu me rồi thịt cả con thắng lẫn con thua mà liên hoan với nhau. Tất nhiên những thứ mọi rợ như vậy thường vẫn thu hút nhiều du khách, nhưng là những du khách mông muội và chắc chắn sẽ để những người văn minh chê cười mà mang tiếng cho một dân tộc.
Cụ già ở đình So (ảnh : KTS Lê Việt Sơn)
Tóm lại, chúng ta có quyền tự hào về xuất xứ, về cội nguồn dân tộc nhưng việc liên tiếp làm những đền đài mới để biểu dương nguồn gốc là việc làm tốn kém và không hiệu quả bằng việc nghĩ xem từ những câu truyện đó rút ra được bài học gì để giúp chúng ta đứng vững trong tương lai. Và chính ý tưởng tương lai này sẽ là thông điệp, là định hướng cho một đền đài thực thụ. Tương tự như vậy, thông điệp của phật giáo, nho giáo, lão giáo, thiên chúa giáo mới là linh hồn của đền chùa, nhà thờ chứ không phải bài vị và tượng của ông Phật hay ông Khổng tử và bố mẹ của họ. Còn nếu có tổ chức hội hè thì cũng cần phải nghiên cứu cho thấu đáo, tập trung vào cái hay, cái đẹp mới thành bản sắc chứ không chỉ là tìm mọi cách để tập trung đông người vào một chỗ. Nếu không tổ chức, nghiên cứu tốt thì hội hè sẽ không phải là nơi phát huy được bản sắc văn hóa mà sẽ là nơi phô bày rõ nét những yếu kém về văn hóa và làm giảm giá trị dân tộc. Vì vậy, điều quan trọng khi tổ chức lễ hội ngày nay không phải cố tìm xem nên bày trò gì, làm cái gì mà quan trọng nhất là phải quyết định không làm cái gì.
2 - Bản sắc làng nghề
2 - Bản sắc làng nghề
Ngòai công trình tín ngưỡng và lễ hội truyền thống ra, các làng nghề là một trong những mảng quan trọng được chú ý trong lĩnh vực tạo dựng bản sắc, thương hiệu. Hàng ngàn làng nghề được công nhận, khôi phục và phát triển. Tất cả các làng phàm đã có bất kỳ một nghề thủ công gì đều có thể được gọi là làng nghề truyền thống. Nhiều làng không có nghề gì gốc thì cũng tạo dựng ra một nghề nào đó. Tại nhiều vùng đô thị mới, người ta nghĩ đến việc dành ra những khu đất cho làng nghề, để có thể đa dạng hóa sản phẩm, công ăn việc làm cho dân. Đặc biệt nhiều nơi nghĩ đến chuyện tập trung nhiều ngành nghề thủ công truyền thống thành một khu hội chợ làng nghề, tương tự như khu 36 phố phường Hà nội ngày xưa. Bản thân khu 36 phố phường với mỗi phố một ngành thủ công cũng được coi là hết sức hấp dẫn và cần phải bảo tồn.
Ý tưởng tái phát triển khu phố cổ Hà Nội của tiến sĩ Iwata Shizuo
(nguồn: Viện Quy hoạch và Kiến trúc đô thị - UAI)
Ngòai những họat động dạng hợp tác xã, tạo công ăn việc làm thì mỗi làng nghề đều phát huy những dạng thờ tổ nghề, bảo tàng nghề v.v... Các lễ hội làng nghề ngày một rầm rộ, khách thập phương dồn về hội ngày một đông, trầm trồ những quả pháo ngày một lớn, những bánh trưng, bánh dày to nhất nước.
Nói chung, tất cả những sự phát triển trên đều không sai và đều góp phần tạo nên một không khí tìm tòi bản sắc nói chung. Tuy nhiên đến nay, sau 20 năm đổi mới, nhìn lại ta có thể thấy được những nỗ lực này không thành công bao nhiêu. Theo tôi, có một số lý do sau:
- Đầu tiên phải nói chúng ta tuy có nhiều nghề thủ công truyền thống, nhưng ít đạt được đến độ tinh xảo, bởi vì nhu cầu xã hội trong quá khứ cũng còn hạn chế, điều kiện giao lưu, học hỏi của người thợ cũng ít. Với mức độ như vậy thì thực ra ở đâu trên thế giới cũng có, vì ở mọi nơi, người ta đã từng phải làm thủ công như vậy trước thời kỳ công nghiệp. Trên tòan thế giới, dạng thủ công như vậy không thể còn sức cạnh tranh. Hiện nay, nếu người thợ thủ công nào còn đứng vững được trên thế giới thì phải đạt độ tinh xảo về tay nghề và sử dụng thành thạo kỹ thuật hiện đại, đi kèm với những hợp tác chặt chẽ về thiết kế mẫu mã. Vậy mà chúng ta chỉ dựa vào mỗi lý do làm bằng tay và sức lao động rẻ thì khác nào người ăn xin chỉ mong vào lòng từ thiện. Những lao động lương thấp này càng làm nhiều, càng xuất khẩu nhiều thì càng lún sâu vào vòng nghèo đói.
- Vậy mà thay vì tìm cách phát triển công nghệ, mẫu mã để tăng chất lượng, thực sự đạt đẳng cấp quốc tế thì chúng ta dùng mọi nỗ lực cho việc phô trương, tiếp thị những sản phẩm còn chưa đạt yêu cầu. Đã đành rằng việc nâng cao chất lượng không phải một sớm một chiều có thể đạt được, tuy nhiên điều quan trọng là vấn đề ý thức. Lấy ví dụ nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng long, chúng ta làm một dự án đường gốm, một dải trang trí ghép bằng những mảnh gốm dài hàng chục cây số ven sông Hồng, chi phí tới gần nửa triệu Đô la, nhằm tôn vinh nghề truyền thống gốm ở Bát tràng. Trong khi đó, thực sự ở Bát Tràng hiện có rất ít sản phẩm đạt tầm cỡ quốc tế. Với số tiền lớn đó, nếu để tổ chức chuyển giao công nghệ, hội tụ nghệ sỹ, nghệ nhân thế giới nhằm giúp Bát Tràng có thể bật lên, có chỗ đứng vững trong tương lai thì sẽ tốt hơn nhiều. Tương tự như vậy, thay vì nghĩ xem làm sao để cái bánh trưng, bánh dày dân tộc được mọi nơi trên thế giới sử dụng thì chúng ta làm những bánh trưng to nhất thế giới, ném nguyên cả con lợn vào nhân. Thay vì tạo ra những sản phẩm đúc đồng hiện đại, tinh tế thì chúng ta đúc những quả chuông nặng nhất lịch sử v.v... Tất cả những điều đó đều là những định hướng sai lầm và nguy hiểm.
Chợ quê
- Chúng ta mở ra khắp nơi hàng ngàn làng nghề, đâu đâu cũng có triển lãm nghề thủ công, tiếp thị quảng cáo, nhưng không thực sự có quy họach ở đâu nên làm gì thì tốt nhất, tối ưu nhất, để có được một bức tranh du lịch tối ưu, hiệu quả và đặc sắc. Cần phải hiểu rằng ngòai giá trị hàng hóa thì làng nghề có giá trị văn hóa và du lịch rất cao. Nhưng những giá trị này chỉ phát huy được khi người ta biết trân trọng lịch sử, địa điểm, đặc trưng văn hóa của nó, còn khi ta chỉ coi nó như là sản xuất hàng hóa thông dụng, ai làm cũng thế, ở đâu cũng vậy thì có nghĩa là đã mất đi giá trị văn hóa, du lịch mất rồi. Ví dụ Hà nội là một vùng đất linh của đồng bằng sông Hồng, tập trung rất nhiều thổ sản quý báu đặc trưng của sông Hồng, từ Cam Canh, Bưởi Diễn, Cốm Vòng, Ổi Trại Găng, Khế Bắc biên, Chuối tiêu sông Hồng, Ngô Bãi giữa, Hồng xiêm Xuân đỉnh, Đào quất Nhật tân, Hoa Ngọc Hà, rau thơm làng Láng, dâu tằm dọc sông Đáy, sông Nhuệ v.v. Nếu biết khai thác, phát triển từ trồng trọt sang chế biến, buôn bán phục vụ du lịch thì mỗi vùng sẽ là một đầu mối buôn bán, một bản sắc kẻ chợ, bản sắc làng Nghề mà không mấy nơi trên thế giới có được. Những báu vật của trời đất ấy thấm nhuần lịch sử, văn hóa và không dễ gì có thể dùng sức người thay thế được. Trên thế giới nhiều nơi chỉ có củ khoai, củ sắn, củ tỏi củ hành mà họ cũng làm thành những nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn vô số du khách. Vậy nhưng ta chỉ coi Cam là cam, Bưởi là bưởi, trồng tràn lan khắp nơi, vừa chất lượng giảm, vừa mất hẳn một nét bản sắc văn hóa. Từ một đặc sản du lịch trở thành một mặt hàng nông sản bình thường. Tất nhiên với nhu cầu ngày một cao, việc phát triển sản xuất ra những vùng phụ cận hoặc cải tạo cơ cấu cây trồng vật nuôi cho những vùng trồng lúa cũng là cần thiết, nhưng cần phải giữ lại điểm gốc thì mới đẩy lên thành văn hóa được và từ đó những vùng mới càng được thơm lây.
Tóm lại, tìm về bản sắc là điều tốt và cần thiết, nhưng phải xác định thật kỹ cái gì là thực sự quý, thực sự đẳng cấp và làm thế nào để bảo tồn và phát huy, còn cái gì còn yếu kém thì một là bỏ đi tìm hướng khác, hoặc là phải biết là còn kém mà hết lòng cầu thị để cạnh tranh với đời. Vấn đề lớn của chúng ta hiện nay là đang lẫn lộn giá trị, có những thứ rất quý giá thì coi làm thường, còn những thứ rất tầm thường thì lại tôn vinh, phô trương, như vậy chẳng những không tìm lại được bản sắc mà càng mất bản sắc nhanh hơn.
Tóm lại, tìm về bản sắc là điều tốt và cần thiết, nhưng phải xác định thật kỹ cái gì là thực sự quý, thực sự đẳng cấp và làm thế nào để bảo tồn và phát huy, còn cái gì còn yếu kém thì một là bỏ đi tìm hướng khác, hoặc là phải biết là còn kém mà hết lòng cầu thị để cạnh tranh với đời. Vấn đề lớn của chúng ta hiện nay là đang lẫn lộn giá trị, có những thứ rất quý giá thì coi làm thường, còn những thứ rất tầm thường thì lại tôn vinh, phô trương, như vậy chẳng những không tìm lại được bản sắc mà càng mất bản sắc nhanh hơn.
P.Đ.T.
No comments:
Post a Comment