TRỌNG NGHĨA
12/12/2011 17:12 (GMT+7)
Lạm dụng tiền của khách hàng là chủ trương của những người đứng đầu công ty chứng khoán.
Sáng 12/12, những nhà đầu tư chậm chân đến đóng tài khoản tại Công ty Chứng khoán SME (SMES) đều phải chấp nhận một giải pháp được đưa ra: chuyển chứng khoán sang tài khoản mới mở Công ty Chứng khoán GoldenBridge (GBVS), trong khi tiền mặt thì vẫn phải chờ!
Theo thông tin từ một khách hàng của SMES, dĩ nhiên việc lựa chọn mở tài khoản tại công ty chứng khoán nào là tùy ý, nhưng SMES khuyên khách hàng nên "chạy" qua GBVS. Một số thông tin hậu trường cũng đồn đoán về khả năng GBVS sẽ rót vốn vào SMES. Chính bộ phận môi giới của GBVS cũng trực tiếp đến ngồi tại văn phòng của SMES để hỗ trợ khách hàng chuyển đổi thuận tiện.
Việc rút tiền mặt tại SMES lúc này là bất khả thi, ít nhất trong vòng vài ba tuần tới. Câu trả lời chung cho bất kỳ khách hàng nào muốn rút tiền là chờ đợi. Cũng theo nguồn tin trên, cách đây vài tuần, SMES còn cho phép rút một lượng nhỏ. Tuy nhiên, gần đây, bộ phận lưu ký của công ty đã trả lời thẳng: hết tiền mặt, khách hàng chỉ có thể rút tiền xếp hàng theo thứ tự trong vòng 2-3 tuần tới.
Việc một số công ty chứng khoán bị mất thanh khoản bây giờ không còn "nóng" nữa. Ngoài SMES cũng đã có thêm TAS bị cảnh cáo, dù chưa có thêm các thông tin liên quan đến mức độ nghiêm trọng về thanh khoản như SMES. Vấn đề còn lại là nhà đầu tư tiếp tục nắm đằng lưỡi trong các tình huống như thế này.
Rất đông các nhà đầu tư đều nghĩ rằng tiền gửi tại công ty chứng khoán là tiền của mình, và sẽ được đảm bảo an toàn dù công ty có mất thanh khoản. Tuy nhiên điều đó chỉ đúng trong tình huống công ty chứng khoán "chơi đẹp", không lạm dụng được tài khoản của khách hàng, hoặc có một cơ chế như tách bạch tài khoản đến tận gốc tại ngân hàng để công ty không đụng chạm được đến tiền mặt của khách.
Rõ ràng số dư tiền mặt trên tài khoản vẫn báo đầy đủ, thậm chí vẫn giao dịch mua được nhưng khi chủ tài khoản đến rút tiền thì công ty lại không chi trả được. Tại sao tiền của mình lại "tuột" khỏi tay khổ chủ?
Câu trả lời là công ty chứng khoán đã "xào" tiền của khách hàng, quay vòng tiền cho mục đích khác. Phần lớn trường hợp là công ty sử dụng chính tiền của khách hàng này để cho khách hàng khác sử dụng qua hình thức đòn bẩy tài chính. Việc "xào" tiền này có thể gây rủi ro về thanh khoản cho bất kỳ công ty chứng khoán nào, dù lớn hay nhỏ nếu xảy ra ở cấp độ lớn. Dĩ nhiên mức độ rủi ro thường xuất hiện với các công ty nhỏ vì vòng quay không đủ nhanh.
Có hai tình trạng phổ biến lạm dụng tiền của khách hàng, là công ty cho một số khách VIP sử dụng đòn bẩy bằng chính tiền của khách hàng khác, và ứng trước trả tiền mua. Việc quản lý tài khoản tiền tổng tạo điều kiện thuận lợi cho mục đích này.
Không phải trường hợp nào công ty chứng khoán cũng sử dụng vốn ngân hàng hay vốn tự có để cung cấp dịch vụ hỗ trợ tài chính. Tổng tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn dễ lạm dụng nhất, dựa trên một tiền đề là tần suất mua, rút tiền của khách hàng ở một mức nào đó thấp hơn mức được lạm dụng. Mọi việc sẽ vẫn trôi chảy nếu vòng quay: lấy tiền của khách - hỗ trợ khách hàng khác - nhận tiền hoàn lại + phí diễn ra bình thường. Khi đó tiền của người này kịp quay vòng để bù cho tiền của người khác trong hệ thống.
Vì một lý do nào đó, vòng quay nói trên bị dừng lại, công ty sẽ lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản, phải bù đắp bằng nguồn nào đó. Chẳng hạn, đột nhiên khách hàng rút tiền nhiều hơn bình thường, trong khi dòng tiền thu về từ hoạt động hỗ trợ đòn bẩy chưa kịp trở lại; Hoặc, khách hàng đột ngột mua quá lớn vượt dự tính của công ty; Hoặc, nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy mất khả năng hoàn lại tiền, hoặc hoàn tiền bị thiếu, nói nôm na là lỗ mà không bù được đòn bẩy.
Trường hợp phổ biến là khách hàng dùng đòn bẩy thua lỗ, chạy làng bỏ lại cục nợ cho công ty. Công ty vẫn có khoản thế chấp là chứng khoán, nhưng giá trị của khoản thế chấp đó nếu chuyển đổi thành tiền mặt lại không đủ để trả lại khoản tiền đã lạm dụng của khách hàng khác. Chứng khoán thế chấp có thể bị mất thanh khoản không bán được, hoặc bán được nhưng lỗ quá nhiều.
Điều nguy hiểm là rủi ro này không chỉ xuất hiện với công ty chứng khoán nhỏ mà là với mọi công ty chứng khoán nếu quản lý vốn không tốt, lạm dụng vốn quá độ. Chỉ có quy trình giám sát nội bộ và sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức của các công ty mới kiểm soát được vấn đề này. Đáng tiếc là việc lạm dụng vốn của khách hàng đều xuất phát từ chủ trương của người quản lý công ty chứng khoán.
Một vấn đề nghiêm trọng nữa là khách hàng không được bảo vệ trong tình huống nói trên. Thật kỳ quái là tiền của mình mà mình không được sử dụng, trong khi phải cắn răng chịu đựng. SMES là ví dụ. Khách hàng không thể rút tiền của chính mình ra ngay lập tức mà phải chờ nhiều tuần. Ai sẽ gánh chịu rủi ro cơ hội của nhà đầu tư?
Các hợp đồng mở tài khoản đều quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Trong đó, khách hàng có quyền rút tiền theo yêu cầu và công ty phải trả. Tranh chấp xảy ra trước tiên là được dàn xếp để hòa giải, sau đó sẽ đưa ra tòa nếu không hòa giải được. Điều đó có nghĩa là nếu nhà đầu tư không rút được tiền ngay, họ có thể kiện công ty vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế lại không đơn giản như vậy. Đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ vốn cỡ vài trăm triệu không thể tiến hành khởi kiện vì nhiều lý do, trong khi chính công ty cũng năn nỉ hết lời để khất lần.
Câu chuyện minh bạch và tách bạch tài khoản tiền gửi của khách hàng với công ty chứng khoán là câu chuyện đã kéo dài nhiều năm nay. Đa phần công ty chứng khoán chỉ dừng đến mức tách bạch tài khoản tổng, thậm chí nhiều công ty vẫn chưa đạt đến mức đó. Các quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính của công ty chứng khoán mới quản lý đến khả năng sử dụng vốn của công ty chứ chưa khống chế được việc công ty lạm dụng tiền của khách hàng. Hiện trung tâm lưu ký cũng chỉ mới khống chế được khối lượng chứng khoán đến từng tài khoản, chứ chưa giám sát được tiền mặt của nhà đầu tư.
Theo thông tin từ một khách hàng của SMES, dĩ nhiên việc lựa chọn mở tài khoản tại công ty chứng khoán nào là tùy ý, nhưng SMES khuyên khách hàng nên "chạy" qua GBVS. Một số thông tin hậu trường cũng đồn đoán về khả năng GBVS sẽ rót vốn vào SMES. Chính bộ phận môi giới của GBVS cũng trực tiếp đến ngồi tại văn phòng của SMES để hỗ trợ khách hàng chuyển đổi thuận tiện.
Việc rút tiền mặt tại SMES lúc này là bất khả thi, ít nhất trong vòng vài ba tuần tới. Câu trả lời chung cho bất kỳ khách hàng nào muốn rút tiền là chờ đợi. Cũng theo nguồn tin trên, cách đây vài tuần, SMES còn cho phép rút một lượng nhỏ. Tuy nhiên, gần đây, bộ phận lưu ký của công ty đã trả lời thẳng: hết tiền mặt, khách hàng chỉ có thể rút tiền xếp hàng theo thứ tự trong vòng 2-3 tuần tới.
Việc một số công ty chứng khoán bị mất thanh khoản bây giờ không còn "nóng" nữa. Ngoài SMES cũng đã có thêm TAS bị cảnh cáo, dù chưa có thêm các thông tin liên quan đến mức độ nghiêm trọng về thanh khoản như SMES. Vấn đề còn lại là nhà đầu tư tiếp tục nắm đằng lưỡi trong các tình huống như thế này.
Rất đông các nhà đầu tư đều nghĩ rằng tiền gửi tại công ty chứng khoán là tiền của mình, và sẽ được đảm bảo an toàn dù công ty có mất thanh khoản. Tuy nhiên điều đó chỉ đúng trong tình huống công ty chứng khoán "chơi đẹp", không lạm dụng được tài khoản của khách hàng, hoặc có một cơ chế như tách bạch tài khoản đến tận gốc tại ngân hàng để công ty không đụng chạm được đến tiền mặt của khách.
Rõ ràng số dư tiền mặt trên tài khoản vẫn báo đầy đủ, thậm chí vẫn giao dịch mua được nhưng khi chủ tài khoản đến rút tiền thì công ty lại không chi trả được. Tại sao tiền của mình lại "tuột" khỏi tay khổ chủ?
Câu trả lời là công ty chứng khoán đã "xào" tiền của khách hàng, quay vòng tiền cho mục đích khác. Phần lớn trường hợp là công ty sử dụng chính tiền của khách hàng này để cho khách hàng khác sử dụng qua hình thức đòn bẩy tài chính. Việc "xào" tiền này có thể gây rủi ro về thanh khoản cho bất kỳ công ty chứng khoán nào, dù lớn hay nhỏ nếu xảy ra ở cấp độ lớn. Dĩ nhiên mức độ rủi ro thường xuất hiện với các công ty nhỏ vì vòng quay không đủ nhanh.
Có hai tình trạng phổ biến lạm dụng tiền của khách hàng, là công ty cho một số khách VIP sử dụng đòn bẩy bằng chính tiền của khách hàng khác, và ứng trước trả tiền mua. Việc quản lý tài khoản tiền tổng tạo điều kiện thuận lợi cho mục đích này.
Không phải trường hợp nào công ty chứng khoán cũng sử dụng vốn ngân hàng hay vốn tự có để cung cấp dịch vụ hỗ trợ tài chính. Tổng tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn dễ lạm dụng nhất, dựa trên một tiền đề là tần suất mua, rút tiền của khách hàng ở một mức nào đó thấp hơn mức được lạm dụng. Mọi việc sẽ vẫn trôi chảy nếu vòng quay: lấy tiền của khách - hỗ trợ khách hàng khác - nhận tiền hoàn lại + phí diễn ra bình thường. Khi đó tiền của người này kịp quay vòng để bù cho tiền của người khác trong hệ thống.
Vì một lý do nào đó, vòng quay nói trên bị dừng lại, công ty sẽ lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản, phải bù đắp bằng nguồn nào đó. Chẳng hạn, đột nhiên khách hàng rút tiền nhiều hơn bình thường, trong khi dòng tiền thu về từ hoạt động hỗ trợ đòn bẩy chưa kịp trở lại; Hoặc, khách hàng đột ngột mua quá lớn vượt dự tính của công ty; Hoặc, nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy mất khả năng hoàn lại tiền, hoặc hoàn tiền bị thiếu, nói nôm na là lỗ mà không bù được đòn bẩy.
Trường hợp phổ biến là khách hàng dùng đòn bẩy thua lỗ, chạy làng bỏ lại cục nợ cho công ty. Công ty vẫn có khoản thế chấp là chứng khoán, nhưng giá trị của khoản thế chấp đó nếu chuyển đổi thành tiền mặt lại không đủ để trả lại khoản tiền đã lạm dụng của khách hàng khác. Chứng khoán thế chấp có thể bị mất thanh khoản không bán được, hoặc bán được nhưng lỗ quá nhiều.
Điều nguy hiểm là rủi ro này không chỉ xuất hiện với công ty chứng khoán nhỏ mà là với mọi công ty chứng khoán nếu quản lý vốn không tốt, lạm dụng vốn quá độ. Chỉ có quy trình giám sát nội bộ và sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức của các công ty mới kiểm soát được vấn đề này. Đáng tiếc là việc lạm dụng vốn của khách hàng đều xuất phát từ chủ trương của người quản lý công ty chứng khoán.
Một vấn đề nghiêm trọng nữa là khách hàng không được bảo vệ trong tình huống nói trên. Thật kỳ quái là tiền của mình mà mình không được sử dụng, trong khi phải cắn răng chịu đựng. SMES là ví dụ. Khách hàng không thể rút tiền của chính mình ra ngay lập tức mà phải chờ nhiều tuần. Ai sẽ gánh chịu rủi ro cơ hội của nhà đầu tư?
Các hợp đồng mở tài khoản đều quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Trong đó, khách hàng có quyền rút tiền theo yêu cầu và công ty phải trả. Tranh chấp xảy ra trước tiên là được dàn xếp để hòa giải, sau đó sẽ đưa ra tòa nếu không hòa giải được. Điều đó có nghĩa là nếu nhà đầu tư không rút được tiền ngay, họ có thể kiện công ty vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế lại không đơn giản như vậy. Đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ vốn cỡ vài trăm triệu không thể tiến hành khởi kiện vì nhiều lý do, trong khi chính công ty cũng năn nỉ hết lời để khất lần.
Câu chuyện minh bạch và tách bạch tài khoản tiền gửi của khách hàng với công ty chứng khoán là câu chuyện đã kéo dài nhiều năm nay. Đa phần công ty chứng khoán chỉ dừng đến mức tách bạch tài khoản tổng, thậm chí nhiều công ty vẫn chưa đạt đến mức đó. Các quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính của công ty chứng khoán mới quản lý đến khả năng sử dụng vốn của công ty chứ chưa khống chế được việc công ty lạm dụng tiền của khách hàng. Hiện trung tâm lưu ký cũng chỉ mới khống chế được khối lượng chứng khoán đến từng tài khoản, chứ chưa giám sát được tiền mặt của nhà đầu tư.
http://vneconomy.vn/2011121205091773P0C7/lam-sao-lay-lai-duoc-tien-tu-cong-ty-chung-khoan.htm
CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN:
(Các ý kiến bạn đọc được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tòa soạn. VnEconomy có thể biên tập lại ý kiến của bạn nếu cần thiết)
- Bien Phan22:59 (GMT+7) - Thứ Tư, 14/12/2011Công ty chứng khoán nhận tiền của khách hàng và cung cấp dịch vụ ứng trước trên số tiền của khách hàng, một câu chuyện đã diễn ra từ lâu mà cơ quan quản lý không thể không biết, vậy ai đã trực tiếp hoặc gián tiếp buông lỏng quản lý để Công ty chứng khoán hoạt động như một ngân hàng thực sự (Có huy động vốn, có cho vay vốn)?
Chính vì thế, sự lạm dụng tiền gửi của khách hàng là điều chắc chắn xảy ra vì chi phí huy động vốn thấp trong khi lợi nhuận từ việc ứng trước rất cao.
Việc SME hay TAS chỉ là màn khởi đầu, nếu các nhà đầu tư không tỉnh táo kiểm tra khả năng thanh toán của công ty CK thì việc mất tiền là tất yếu.
UBCK đứng ở đâu khi đến giờ vẫn không tách bạch được tiền của nhà đầu tư với tiền của Cty CK, nếu nhà đầu tư bị lạm dụng tiền và dẫn đến mất tiền thì UBCK chịu trách nhiệm gì??? - Cuong14:44 (GMT+7) - Thứ Tư, 14/12/2011Vỡ ra một điều:
Từ khi lùm xùm vụ tiền bạc của NĐT bị CTy chứng khoán lợi dụng thì hầu như tất cả các nhận định của các CTy CK đều "khuyên" các NĐT không nên mua vào cổ phiếu (và cũng không khuyên bán ra), trong những nhận dịnh đó chắc chắn có những CTy CK lo sợ không đủ tiền bù trừ cho NĐT khi lượng mua vào ồ ạt!
Tốt nhất tự các NĐT hãy giữ chặt "bị" của mình bằng cách ôm tiên mặt chờ cơ hội nhảy vào hãy xuống tiền. Chúc các NĐT may mắn! - Hoàng Vũ14:36 (GMT+7) - Thứ Tư, 14/12/2011Tiêu đề của bài viết sao mà nghe đau xót. Rủi ro Công ty chứng khoán lạm dụng tiền của nhà đầu tư khi mở tài khoản tiền thanh toán chứng khoán tại chính công ty chứng khoán chắc chắn Ủy ban Chứng khoán biết nhưng tại sao không đưa ra biện pháp kiểm soát rủi ro này để bảo vệ nhà đầu tư?
Cách đây vài năm tôi thấy UBCK cũng đã tính tới việc chuyển tài khoản tiền của nhà đầu tư sang ngân hàng rồi nhưng triển khai không quyết liệt nên để lại hậu quả mà hiện nay nhà đầu tư phải gánh chịu.
Vậy trách nhiệm để xảy ra vấn đề này thì xử lý ra sao? Lấy lý do hệ thống công nghệ thông tin của các công ty chứng khoán không tương thích với các hệ thống thanh toán của NHTM nên không triển khai quyết liệt biện pháp nêu trên là một sai sót, khuyết điểm rất lớn không thể không xử lý kỷ luật.
Tại sao UBCK không đề ra thời hạn kết nối hệ thống và đưa ra điều kiện các Cty CK không đủ khả năng/điều kiện kết nối sẽ bị tịch thu giấy phép kinh doanh? mà vẫn để hơn 100 cty hoạt động 1 cách thiếu chuyên nghiệp và lợi dụng tiền khách hàng.
Tất nhiên đằng sau đó còn nhiều chuyện "tế nhị" mà chỉ có UBCK và Cty chứng khoán biết với nhau nhưng quyền lợi của nhà đầu tư thì ai bảo vệ đây?
Tôi không phải là người đầu tư chứng khoán nhưng qua theo dõi tôi cảm thấy rất không ổn với cách điều hành/quản lý hiện nay của UBCK. Sẽ còn có bao nhiêu công ty kiểu như SMES nữa đây? Tôi đoán là còn nhiều và các nhà đầu tư còn là nạn nhân. Hãy biết tự bảo vệ tài sản của mình trước khi quá muộn. - Phonglan11:18 (GMT+7) - Thứ Tư, 14/12/2011Thật chua chát như tiêu đề bài viết. Tiền của mình bỏ ra mà không thể lấy lại được. Sao không ai bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư hết vậy?
- An Bình08:32 (GMT+7) - Thứ Ba, 13/12/2011Nếu ủy ban chứng khoán và các cơ quan cấp phép cho công ty chứng khoán thờ ơ với quyền lợi nhà đầu tư như vậy thì cái chợ chứng khoán của chúng ta đi về đâu vậy??
- Bình07:31 (GMT+7) - Thứ Ba, 13/12/2011Rõ ràng công ty CK dùng tiền của nhà đầu tư dùng cho mục đích khác mà không được sự chấp thuận của NĐT là vi phạm pháp luật. Cần có xử lý hình sự với người đứng đầu các công ty CK này.
- Ngọc Lan19:38 (GMT+7) - Thứ Hai, 12/12/2011Đây chính là lý do tôi không đầu tư chứng khoán (vì không thấy có cơ chế an toàn để bảo vệ tiền của mình ký gửi vào công ty chứng khoán).
Là nhà đầu tư, tôi chỉ chấp nhận rủi ro mất tiền do quyết định đầu tư sai của chính mình, chứ không thể chấp nhận mất tiền vì công ty chứng khoán lạm dụng.
Cơ chế hiện nay tạo điều kiện để công ty chứng khoán "phạm tội". Những rủi ro thế này chỉ lộ ra khi thị trường khủng hoảng, chứ lúc thị trường đang lên vù vù thì không lộ ra nên ít ai để ý.
Cũng tương tự như thị trường BĐS vậy. Khi thị trường lên thì nhà đầu tư nhắm mắt mua mà không cần quan tâm đến tính pháp lý và điều khoản trong hợp đồng của dự án (vì kiểu gì cũng sẽ "sang tay" lại cho người khác).
Chỉ đến khi thị trường xuống, bán không được thì nhà đầu tư mới bị mắc kẹt với một dự án BĐS mà tính pháp lý mù mờ và hợp đồng đầy những bất lợi.
Nhưng lúc đó thì cũng quá muộn để rút ra. - Van Dinh19:32 (GMT+7) - Thứ Hai, 12/12/2011Tốt nhất là dân có tiền thì giữ ở nhà? Biết như thế là không tốt cho nền kinh tế nhưng cứ giao tiền ra ngoài là đòi về khó lắm :) Trách nhiệm của quản lý nhà nước trong việc này ra sao?
No comments:
Post a Comment