(19/05/2011)
Ngày 17/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2011/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức.
Nghị định được xây dựng gồm 6 Chương và 26 Điều, trong đó: Chương I là các quy định chung; Chương II quy định thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật; Chương III là các quy định về áp dụng hình thức kỷ luật; Chương IV là thẩm quyền xử lý kỷ luật, trình tự, thủ tục xem xét xử lý kỷ luật; Chương V là các quy định có liên quan và Chương VI gồm các điều khoản thi hành.
Nguyên tắc xử lý kỷ luật cần đảm bảo khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị xử lý một hình thức kỷ luật. Nếu công chức có nhiều hành vi vi phạm pháp luật thì bị xử lý kỷ luật về từng hành vi vi phạm và chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi nặng nhất, trừ trường hợp có hành vi vi phạm phải xử lý kỷ luật bằng hình thức thôi việc.
Trường hợp công chức tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian đang thi hành quyết định kỷ luật thì bị áp dụng hình thức kỷ luật như sau: Nếu có hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý kỷ luật ở hình thức nhẹ hơn hoặc bằng so với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật đang thi hành; Nếu có hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý kỷ luật ở hình thức nặng hơn so với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật mới. Quyết định kỷ luật đang thi hành chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm quyết định kỷ luật đối với hành vi vi phạm pháp luật mới có hiệu lực.
Nghị định quy định các hành vi bị xử lý kỷ luật bao gồm: Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của công chức trong thi hành công vụ; những việc công chức không được làm quy định tại Luật Cán bộ, công chức; Vi phạm pháp luật bị tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật; Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, bình đẳng giới, phòng chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật là: Đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cho phép; Đang trong thời gian điều trị có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; Công chức nữ đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi; Đang bị tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó còn có các trường hợp được miễn trách nhiệm kỷ luật như: Được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi dân sự khi vi phạm pháp luật; Phải chấp hành quyết định của cấp trên theo quy định tại Khoản 5 Điều 9 Luật Cán bộ, công chức; và được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm pháp luật trong tình thế bất khả kháng khi thi hành công vụ.
Về các hình thức kỷ luật đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, gồm: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, buộc thôi việc. Các hình thức kỷ luật đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, gồm: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc.
Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật. Thời hạn xử lý kỷ luật tối đa là 02 tháng, kể từ ngày phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật.
Cũng tại Nghị định này, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền xử lý kỷ luật, việc tổ chức họp kiểm điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật, quy định các vấn đề liên quan về Hội đồng kỷ luật; Quyết định kỷ luật… Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ các quy định liên quan khi xem xét xử lý kỷ luật, các quy định liên quan đến việc thi hành quyết định kỷ luật; Chế độ, chính sách đối với công chức đang trong thời gian tạm giữ, tạm giam và tạm đình chỉ công tác.
Nghị định có hiệu lực từ ngày 5/7/2011.
SN