15:55 | 13/03/2011 | ||
Lịch sử còn ghi, ở thế kỷ 14, sau khi xâm chiếm nước ta, nhà Minh đã thực hiện chính sách đồng hóa, đốt sách, phá hủy văn bia hòng xóa bỏ nước Đại Việt. Và chắc chắn cả nghìn năm cai trị của phong kiến phương Bắc, chính sách hủy diệt và đồng hóa đó đã diễn ra rất nhiều lần. Nhưng sức sống của dân tộc Việt, mà trước hết là văn hóa Việt đã vô cùng mãnh liệt, cứ vượt lên đứng dậy từ tro tàn mà sống, mà phát triển... Có được sức sống như vậy trước hết là phải có bản lĩnh văn hóa. Mà bản lĩnh văn hóa thì đầu tiên là ở chiều sâu văn hóa. Về hội Lim (Bắc Ninh) hôm 13 tháng Giêng vừa qua nghe hát Quan họ, tôi thấy văn hóa Việt thật là sâu thẳm: "Yêu nhau đứng ở đằng xa/ Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần". Văn hóa Việt không chỉ sâu mà còn huyền ảo. Phải chăng cả độ sâu và sự huyền ảo đã tạo nên sức mạnh?
Nền văn hóa có bản sắc ấy của chúng ta có thể sánh với bất cứ nền văn hóa nào của thế giới. Chúng ta không đánh giá thấp nền văn hóa của dân tộc nào, nhưng chúng ta cũng không cho phép ai hạ thấp nền văn hóa của chúng ta. Thời đại hội nhập kinh tế thế giới, thì giao lưu văn hóa giữa các nước là cần thiết. Nhưng giao lưu là để biết, để hiểu nhau, và có thể học hỏi những điều hay phù hợp, chứ không phải bỏ văn hóa của mình mà chạy theo văn hóa của người. Ngày Lễ Tình yêu (Valentine, 14/2) là của châu Âu chứ không phải là của thế giới. Hàng mấy nghìn năm chúng ta không biết có ngày lễ ấy, vậy mà ngàn đời nay ông cha ta đã yêu nhau và sống hạnh phúc. Những tình yêu bất tử ấy đã được gửi vào những lời ca tuyệt diệu: "Ra đường mắt mải nhìn anh/ Để chân em đá đổ thành nhà vua", "Ra về em có dặn rằng/ Nơi hơn người kết, nơi bằng đợi em", "Anh còn cái cối giã bèo/ Anh đem bán nốt để theo cô mình"... Vì vậy, dư luận nói chung đã đồng tình với quyết định của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hải Phòng không cấp giấy phép cho Công ty Cổ phần Truyền thông Thương hiệu Vàng tổ chức cuộc thi hôn 100 cặp đôi ở sân Cung Văn hóa Lao động Việt - Tiệp (Hải Phòng) chiều 13/2, vì nó không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đó là một quyết định đúng đắn. Đó là bản lĩnh của Văn hóa Việt. Những quyết định như thế cần phải được ủng hộ, được khuyến khích giữa lúc nhiều nơi nhiều năm qua đã thường xuyên để cho những tạp chất văn hóa của nước ngoài tràn ngập vào đời sống văn hóa của chúng ta. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề được thực hiện với tất cả các dân tộc qua mọi thời kỳ lịch sử. Bởi vì bản sắc văn hóa là linh hồn của một dân tộc, không có bản sắc văn hóa thì coi như dân tộc đó không còn. Dân tộc Việt Nam ta, qua bốn nghìn năm lịch sử đã hình thành, duy trì và phát triển một bản sắc văn hóa độc đáo. Nhưng đồng thời dân tộc ta cũng luôn luôn phải chống lại những ý đồ xâm lăng văn hóa nhằm xóa bỏ nền văn hóa của chúng ta. Cuộc đấu tranh ấy khi yên ả, lúc dữ dội, nhưng luôn luôn quyết liệt vì nó là sự mất còn của dân tộc. Ngày nay, cuộc đấu tranh ấy đang diễn ra quyết liệt hơn bao giờ hết bởi văn hóa ngoại đang có thuận lợi về nhiều mặt: pháp lý, tâm lý, tài chính... để thực hiện. Vì vậy, muốn giữ được dân tộc thì phải xây kè văn hóa thật vững, phải biết tự bảo vệ. Bài học thiếu cảnh giác của Mỵ Châu "Trái tim lầm chỗ để trên đầu", có ý nghĩa hết sức rộng lớn về chính trị, kinh tế và cả văn hóa, và vẫn mang tính thời sự. Một phần tư thế kỷ hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta tự hào vì những thành tựu về kinh tế của chúng ta bao nhiêu thì chúng ta cũng lo lắng về sự phát triển về văn hóa của nước ta bấy nhiêu. Hai mươi nhăm năm qua, văn hóa nước ta phát triển hay là xuống cấp là câu hỏi còn băn khoăn của rất nhiều người khi trả lời. Đòi hỏi những người có trách nhiệm phải tổ chức nghiên cứu, hội thảo, kết luận và đặt ra được chiến lược phát triển và phương thức thực hiện đúng đắn nhất để đạt hiệu quả. Đó cũng là bản lĩnh của văn hóa Việt Nam trước đòi hỏi của dân tộc và thời đại. | ||
Các từ khóa theo tin: | ||
(Nguồn: Báo Công an Nhân dân) |
Saturday, May 21, 2011
13/03 Bản lĩnh văn hóa Việt
09/04 Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: Đổi mới việc học tập, quán triệt và triển khai các văn kiện Đại hội XI
09:13 | 09/04/2011 | ||
Nhân đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, triển khai Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đồng chí Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã trả lời phỏng vấn báo chí về những nhiệm vụ trọng tâm. * Phóng viên: Xin đồng chí cho biết những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng? * Đồng chí Phạm Văn Linh : Như chúng ta đã biết, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, mỗi Hội nghị Trung ương, việc triển khai nghiên cứu, học tập quán triệt Nghị quyết trong toàn Đảng, toàn dân là trách nhiệm chung của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành. Việc triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, quan trọng trong toàn Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011. Mục đích của việc học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI của Đảng trước hết là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm, hiểu rõ, hiểu sâu hơn quan điểm của Đảng, trên cơ sở đó xây dựng chương trình hành động, tạo ra sự thống nhất về mặt tư tưởng, đồng thuận xã hội để triển khai thực hiện. Đồng thời qua đợt triển khai, học tập Nghị quyết là dịp để chúng ta đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; uốn nắn những nhận thức lệch lạc. | ||
Các từ khóa theo tin: | ||
(Theo TTXVN) |
13/04 Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Đại hội lần thứ XI của Đảng
|
18/04 Cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập với việc vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại tỉnh Khánh Hòa
15:52 | 18/04/2011 | ||
(ĐCSVN) - Cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập vào Khánh Hòa những năm 1925 – 1926. Khi vào Khánh Hòa, cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập vừa làm nghề dạy học, vừa tuyên truyền giác ngộ những người yêu nước ở địa phương, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, viên chức làm cách mạng theo tư tưởng Mác - Lê nin, góp phần rất quan trọng vào cuộc vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại tỉnh Khánh Hòa vào ngày 24/2/1930.
Trong những năm 1925-1926, cùng với thầy giáo Ngô Đức Diễn, thầy giáo Hà Huy Tập được cử vào dạy học ở Khánh Hòa. Lúc bấy giờ, thầy Hà Huy Tập là một trí thức yêu nước, một trong số những người tham gia thành lập Hội phục Việt (7/1925) sau đổi thành Tân Việt cách mạng Đảng, gọi tắt là Đảng Tân Việt ở Nghệ Tĩnh. Ở Khánh Hòa, thầy Hà Huy Tập dạy học ở Trường Tiểu học Pháp-Việt Nha Trang (nay là trường PTTH Nguyễn Văn Trỗi), thầy Ngô Đức Diễn dạy ở huyện Tân Định (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Các thầy đã đem lập trường yêu nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tuyên truyền vận động trong nhà trường và viên chức; tuyên truyền, giác ngộ được nhiều giáo viên, học sinh và thanh niên về công cuộc cứu nước theo tư tưởng cộng sản. Ngoài việc dạy ở trường, thầy Hà Huy Tập và thầy Ngô Đức Diễn còn vận động tổ chức các lớp dạy ban đêm cho công nhân. Ở Nha Trang, thầy Tập tổ chức được hai lớp cho người lớn và một lớp tuổi trẻ, chia làm hai bậc học: người biết đọc, biết viết và người mới bắt đầu học chữ. Đồng chí Hà Huy Tập kể lại: “Vào tháng 3 năm 1926, tôi lập 3 lớp học buổi chiều cho công nhân ở Nha Trang. Những lớp này có hơn 150 công nhân thường đến học. Mục đích giả của tôi là đấu tranh chống nạn mù chữ, nhưng mục đích thật của tôi là tập hợp những công nhân để dễ dàng cho việc tuyền truyền bí mật. Những chi phí về thắp sáng hoặc mua sách vở phát cho công nhân đều do tiền của tôi và các bạn của tôi gom góp lại”. Đây là những người lao động và dân nghèo thị xã, có người làm thợ hồ, thợ mộc, thợ máy, thợ cắt tóc, thợ rèn, phụ lái xe, kéo xe. Bà con đều siêng năng, học tập chăm chỉ, mến phục các thầy, vừa học chữ vừa học các bài giảng thường thức. Trong lúc giảng, thầy nói đến quyền làm người, kể lịch sử nước ta, nêu gương anh hùng liệt sĩ, ca tụng giòng giống Lạc Hồng. Tình yêu đất nước, thương đồng bào, thương người nghèo ghi sâu vào lòng học sinh và những người lao động. Đồng chí Hà Huy Tập kể: “Cũng trong thời kỳ này, tôi là thành viên của Thư viện tỉnh. Trong một cuộc họp của Thư viện, tôi đề nghị mua một số sách viết về “Sự lật đổ” và những tờ báo Annam (Dân chủ), Người cùng khổ, Hồn Việt Nam (Báo cách mạng ở Pari). Khi đó, tôi bị viên công sứ kết tội là người chống Pháp. Từ ngày đó, tôi là đối tượng bị theo dõi bí mật và bị chính quyền ngược đãi” . Trước những hoạt động sôi nổi của thanh niên, giáo viên, học sinh, chính quyền thực dân Pháp ở Khánh Hòa tìm cách đối phó với Hà Huy Tập. Năm 1926, công sứ Pháp tại Nha Trang ra lệnh trục xuất ông ra khỏi tỉnh. Tháng 8/1926, Hà Huy Tập chuyển ra Vinh hoạt động. Thời điểm những năm 1925-1926 là thời điểm trong các phong trào hoạt động yêu nước có sự tác động của một chất lượng mới. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, lấy tên là “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”. Nếu như trước đó, các phong trào yêu nước còn mang đậm màu sắc tư sản, tiểu tư sản, còn bó hẹp trong các tầng lớp trên, thì sau đó đã có tính chất giai cấp công nhân và đi vào quần chúng lao động. Tính chất này tác động vào những đảng viên Đảng Tân Việt như Hà Huy Tập và vào Khánh Hòa. Lớp thanh niên tiến bộ ngưỡng mộ tên tuổi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đón nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga. Chính thời điểm này những thầy giáo như Hà Huy Tập đã tiếp thu tư tưởng cách mạng với chất lượng mới, đã truyền nhiệt huyết và kiến thức của mình cho những người mình dạy học và tiếp xúc. Những hoạt động tích cực đó bước đầu đã cổ vũ, tập hợp được học sinh, thanh niên, đưa họ lên mặt trận đấu tranh mới. Trong hai năm 1925- 1926, trong giới giáo viên, học sinh, thanh niên Khánh Hòa đã có những hoạt động đấu tranh sôi nổi. Đáng chú ý là hai cuộc đấu tranh của giáo viên, học sinh, thanh niên mang tính chất toàn quốc là cuộc đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh. Trước những hoạt động sôi nổi của thanh niên, giáo viên, học sinh, chính quyền thực dân tỉnh Khánh Hòa tìm cách đối phó. Chúng điều động thầy giáo Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn ra các tỉnh phía ngoài. Bốn giáo viên khác ở Trường tiểu học Pháp - Việt Nha Trang cũng bị cách chức, một số học sinh bị đuổi học. Tuy hai thầy giáo Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn không còn hoạt động ở Khánh Hòa nhưng những tư tưởng cách mạng của các thầy đã thức tỉnh lòng yêu nước trong tầng lớp thanh niên, học sinh theo khuynh hướng cộng sản. Từ những hoạt động tích cực của thầy Hà Huy Tập và Ngô Đức Diễn, những cơ sở đầu tiên của Đảng Tân Việt đã bắt đầu nhen nhóm, gây dựng tại 2 địa phương trong tỉnh là thị xã Nha Trang và huyện Tân Định (nay là thị xã Ninh Hòa). Ở Nha Trang, cơ sở đầu tiên của Đảng Tân Việt là các anh Bùi Giáo, nhân viên Sở Lục lộ; Nguyễn Khắc Tài nhân viên Sở Hỏa xa kiều lộ. Ở huyện Tân Định có anh Dương Chước, Lê Dung. Đây là những hạt giống cộng sản đầu tiên được gieo mầm trên đất Khánh Hòa. Tháng 3/1927, Hà Huy Tập lại rời Vinh đi vào Nam và hoạt động ở Sài Gòn. Trong những năm 1927 - 1928, đồng chí liên lạc, tìm gặp những học sinh của mình ở Khánh Hòa vào Sài Gòn và trực tiếp làm giảng viên chính một số khóa huấn luyện chính trị do Kỳ bộ Nam kỳ tổ chức tại Sài Gòn. Đầu năm 1928, đồng chí Lê Dung được cơ sở của Đảng Tân Việt Khánh Hòa cử đi học lớp huấn luyện chính trị ở Sài Gòn. Khoá học này do đồng chí Hà Huy Tập làm giảng viên chính. Học xong đồng chí Lê Dung về lại Khánh Hòa làm nhiệm vụ truyền đạt lại cho các đảng viên ở tỉnh. Trong những tháng cuối năm 1929, cả nước ta diễn ra cuộc đấu tranh để thành lập Đảng. Tổ chức Đảng Tân Việt ở Khánh Hòa nằm trong Liên tỉnh Ngũ Trang bao gồm 5 tỉnh cực Nam Trung bộ và Nam Tây Nguyên. Khi Tân Việt tự cải tổ thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thì Liên tỉnh Ngũ Trang được chuyển thành một bộ phận của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Các cơ sở Đảng Tân Việt chuyển sang Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, củng cố các chi bộ, thành lập Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Bí thư và gồm các đồng chí Lê Dung, Đỗ Long, Trương Hành - những đảng viên đầu tiên của Đảng Tân Việt ở Khánh Hoà khi Hà Huy Tập vào hoạt động ở Khánh Hòa. Hệ thống tổ chức của Đảng bộ Tân Việt Khánh Hòa chuyển sang Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, rồi sau đó chuyển thành Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong thời gian ngắn và ngày thành lập chính thức của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa là ngày 24/2/1930 - ngày có quyết định công nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Kỷ niệm 105 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Hà Huy Tập (24/4/1906- 24/4/2011) là dịp để chúng ta ôn lại và tôn vinh tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường, trọn đời vì dân, vì nước. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí đã để lại cho chúng ta bài học quý báu về lý tưởng cộng sản, tinh thần học tập, rèn luyện, phấn đấu và phục vụ vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa luôn luôn ghi nhớ công lao to lớn đồng chí Hà Huy Tập - Cố Tổng Bí thư của Đảng, người thầy giáo kính yêu đã góp phần to lớn trong thời kỳ đầu vận động thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa. | ||
Các từ khóa theo tin: | ||
Thu Hồng (CTV) |
06/05 Ðiện Biên Phủ - Thắng lợi vĩ đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam
12/05 Bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh
11:24 | 12/05/2011 | ||
(ĐCSVN) - Vừa tròn một thế kỷ, kể từ khi Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh rời bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 - 5/6/2011). Đối với Nguyễn Tất Thành, đây không phải là quyết định giản đơn, tình cờ, mà là kết quả tổng hợp của một quá trình phân tích, lý giải khoa học những nhân tố thuận -nghịch của bối cảnh trong nước và thế giới tác động đến cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, để lựa chọn đúng hướng đi và xác định con đường cứu nước thành công. 1. Đối với tiến trình giải phóng dân tộc, đây là sự kiện mang nội dung cách mạng và ý nghĩa lịch sử lớn lao. Bởi lẽ, sự kiện lịch sử này vừa là mốc kết thúc một quá trình tổng hợp những yếu tố chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, vừa là bước khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh hồi đầu thế kỷ XX. Vì vậy, ý nghĩa và tầm vóc lớn lao của nó mãi mãi được ghi nhận và phát huy trong suốt hành trình cứu nước của Người trước đây và trên con đường đổi mới đất nước hiện nay.
Trước hết, cần hiểu rõ khái niệm "tác động của bối cảnh lịch sử" là gì? Theo chúng tôi: Một là, Không phải toàn bộ bối cảnh lịch sử (trong nước và thế giới) đều tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh. Do đó, bài viết này sẽ không nghiên cứu toàn bộ bối cảnh cuộc hành trình, mà chỉ đi sâu nghiên cứu những sự kiện lịch sử được Người biết đến và gây tác động đến quá trình hình thành con đường cứu nước của Người. Hai là, bối cảnh không phải là bức tranh bất động mà nó thường xuyên thay đổi và gây ảnh hưởng đến xu thế phát triển, hoạt động của mỗi tổ chức, con người. Vì vậy, bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh bao gồm những sự kiện lịch sử mà Người nhận thức, mà trước hết phải kể đến những sự kiện mang ý nghĩa thời đại, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam... Điểm khởi đầu hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh là sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911. Tiếp đó là quá trình vừa lao động, vừa học tập lý luận và hoạt động thực tiễn để tìm ra con đường giải phóng dân tộc thành công. Đó là những năm tháng bôn ba đầy khó khăn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ở nhiều quốc gia, châu lục. Vì vậy, nghiên cứu tác động của bối cảnh lịch sử đến hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh không chỉ là nghiên cứu những nhân tố hình thành quyết tâm và hướng đi mà còn nghiên cứu làm rõ hàng loạt yếu tố mới Người "bắt gặp"- nhận thức trong quá trình hình thành đường lối cứu nước của mình. Vì vậy, ở đây không cần thiết phải thống kê đầy đủ tình hình trong nước và thế giới, cũng không phải mô tả kỹ lưỡng những sự kiện lịch sử đã diễn ra vì đó là bối cảnh chung mà bất kỳ con người đương thời nào đều sống trong đó, dù họ có nhận thức được "bối cảnh" ấy hay không. Vậy bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành quyết tâm và hướng xuất dương tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là gì ? 2. Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống mọi người dân (trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sau thời kỳ "bình định", thực dân Pháp thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" - thực chất là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn, càng thêm khốn đốn. Hậu quả là Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên đây - đồng nghĩa với việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Để giải quyết mâu thuẫn trên, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi với mục tiêu "Phen này quyết chống cả Triều lẫn Tây". Đó là phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài...rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm... Đó là trang sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra sôi nổi, rộng khắp các vùng miền, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh cuối cùng đều thất bại. Bối cảnh lịch sử này, sau này, Hồ Chí Minh viết trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay: "Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam"[1] Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành công. Câu hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam ? đến lúc này vẫn chưa có lời giải. Bối cảnh trên đây, sau này được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả lời nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ"[2]!? Xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước, trọng nghĩa, Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Tuổi học đường của Người gắn bó với những năm tháng quan trường ngắn ngủi đầy trắc trở của người cha Nguyễn Sinh Huy. Người đã theo cha đến cả ba miền đất nước, biết được cuộc sống khó khăn của người dân mất nước dù họ ở xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ "bảo hộ" hay Nam Kỳ "thuộc địa". Người có thời gian sống ở Huế. Đó là điều kiện để Người tìm hiểu, làm quen với cuộc sống quan chức, Hoàng triều. Tuy nhiên, thực tế ấy đã làm cho Người thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan chức, tay sai. Từ những trải nghiệm đầu đời của mình và cuộc sống lận đận, trắc trở của người cha, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu chuyện cha mình thường bình giải "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ". Cho nên, đầu năm 1910, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức thì ông vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người, còn Hồ Chí Minh thì thấy rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trường. Điều này càng thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: "Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc"[3]. Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn là công việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân rất bưng bít tư tưởng mới, ngăn trở sách báo tiến bộ với âm mưu giam hãm dân ta trong vòng nô lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế...Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt.Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài[4]... Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và quyết tâm chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối, hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi. Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người nhận xét: "Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương...Điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến"[5]. Từ những trải nghiệm cuộc sống và với quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp - quốc gia đã đề xướng ra lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn mọi con người " Tự do - Bình đẳng - Bác ái", muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở "nước Mẹ" xa xôi ! Người cho rằng "Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Và chính những nhận thức về bối cảnh đất nước và những tìm hiểu của Hồ Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người sang Pháp và các nước khác... Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Quyết định sang phương Tây của Hồ Chí Minh là sự phủ nhận sự tồn tại nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Đó là đòn tiến công đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với nhà nước đương thời, mở cửa ra thế giới để đón nhận những nhân tố mới của thời đại, tiếp thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước Việt Nam thông qua Hành trình cứu nước của một con người - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Người xuống tàu buôn Pháp Amiran Latusơ Tơrêvin( Amiral Latouche Treville) thuộc Hãng Năm sao đang cập cảng Nhà Rồng gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Nhà Rồng mang theo người thanh niên Việt Nam 21 tuổi với khát vọng cháy bỏng là tìm ra con đường cứu nước Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến. 3. Khi rời Tổ Quốc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có quyết tâm cao, nhưng sự hiểu biết về thế giới còn hạn chế. Sự ra đi ấy khẳng định một quyết tâm lớn, nhưng biết bao câu hỏi còn bỏ ngỏ. Vốn hiểu biết của Người chưa có thể nhận thức được đặc điểm, xu thế của thời đại. Từng bước một, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập lý luận và hoạt động xã hội, Hồ Chí Minh dần dần nhìn ra bối cảnh của hành trình tìm đường cứu nước. Từ hoạt động trong nhiều tổ chức chính trị, xã hội, những trải nghiệm cuộc sống trong nhiều quốc gia thập niên 10, 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh sớm nhìn ra những yếu tố ảnh hưởng đến cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam như con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tư tưởng Lênin và đường lối giải phóng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Nhiều bài viết, bài nói, báo cáo của Hồ Chí Minh gửi QTCS đã thể hiện quá trình nhận thức của Người về thời cuộc và sự tổng hợp, vận dụng sáng tạo những nhân tố tích cực của bối cảnh lịch sử để hình thành con đường cứu nước của mình. Điều cần lưu ý ở đây là Hồ Chí Minh rời Tổ quốc hoà nhập vào thế giới trong thời điểm chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Hệ thống thuộc địa đã hình thành trên phạm vi thế giới. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ V của QTCS (1924), Hồ Chí Minh chỉ rõ: Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh[6]... Cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa và phụ thuộc tuy đã được đẩy mạnh ở các nước châu Âu như: Airơlen, Ba Lan nhưng chưa có nước nào giành được độc lập. Còn ở châu Á, tuy đã trỗi dậy một "Châu Á thức tỉnh" nhưng các quốc gia lớn như: Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia vẫn đang là thuộc địa của bọn đế quốc. Trên phạm vi toàn thế giới, chưa có một thuộc địa nào được giải phóng. Con đường giải phóng dân tộc chưa có một hình mẫu, tấm gương soi chung! Vì vậy, hành trình cứu nước của Hồ Chí Minh lúc này cũng mới chỉ là quyết tâm và định hướng. Người bắt đầu bằng nghề phụ bếp rồi sau đó là công nhân trên tàu buôn Pháp. Nhờ đó, Người có dịp qua nhiều quốc gia như: Xinhgapo, Côlômbô, Aicập, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Mỹ. Đầu năm 1913, Người từ Mỹ về Lơ Havơrơ sau đó sang Anh. Tại đây, Người làm nghề đốt lò, quét tuyết, phục vụ khách sạn. Bất kỳ hoàn cảnh nào, Người thường xuyên chú ý tìm hiểu đời sống và gần gũi với người lao động. Người rất xúc động trước điều kiện sống cực khổ và bị đàn áp của người da đen[7]. Sau những tháng năm trải nghiệm cuộc sống người dân thuộc địa làm thuê, Người dần dần nhận ra một điều: Ở đâu cũng có người nghèo và sự giàu nghèo không phụ thuộc vào màu da, chủng tộc. Người lao động ở đâu cũng khổ cực và biết thương yêu nhau. Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, vừa tiếp tục lao động kiếm sống, vừa tích cực tham gia hoạt động chính trị xã hội. Người liên hệ chặt chẽ với công nhân Pháp, những đại biểu thuộc địa và những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Đây là thời kỳ hoạt động sôi nổi và có hiệu quả trong hành trình tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam. Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp: "Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái" [8]. Giữa năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi "Bản yêu sách tám điểm "của nhân dân An Nam tới Hội nghị các nước đế quốc họp tại Vécxây (Versailles). Mặc dù Yêu sách chỉ nêu những yêu cầu tối thiểu trong khuôn khổ cải cách, nhưng các tác giả của bản Yêu sách ấy đã không nhận được một lời phúc đáp. Từ thực tế ấy, Người kết luận: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"[9]. Thực tế trên đây đã giúp Hồ Chí Minh hiểu thêm bối cảnh khách quan mà hành trình cứu nước không thể bỏ qua. Hành trình đi tìm con đường cứu nước của Hồ Chí Minh vẫn đang tiếp tục. Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Người là được đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Người ánh sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Khẳng định ý nghĩa to lớn của Luận cương trong hành trình tìm ra con đường cứu nước, sau này Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"[10]. Cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng trung thành bấy nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Sơ thảo Luận cương và đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Điều này thể hiện rất rõ khi Người trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô: "Từ ngày Luận cương của Lênin đã hoàn toàn soi sáng cho tôi, tôi không còn chỉ dự các cuộc họp của Đảng một cách thụ động nữa. Tôi lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ ba"[11]. Sự kiện được đọc bản Sơ thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin cùng với những hoạt động sát cánh với công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó đã tạo tiền đề quan trọng để tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua tháng 12 năm 1920, Hồ Chí Minh tích cực thảo luận và sớm quyết định bỏ phiếu ủng hộ Đảng mình gia nhập Quốc tế thứ ba. Người đã tham gia dự thảo Nghị quyết về chủ nghĩa Cộng sản và các thuộc địa và Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa tại Đại hội lần thứ nhất (1921) và lần thứ hai (1922) Đảng Cộng sản Pháp. Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên có nhiều đóng góp tích cực cho vấn đề giải phóng thuộc địa. Với những sự kiện trên đây, Hồ Chí Minh đã từ người yêu nước trở thành người cộng sản chân chính. Và đây còn là mốc quan trọng đánh dấu việc Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước. Người đã hoàn thành sứ mạng Người tìm thấy con đường cứu nước Việt Nam . Tiếp theo là những hoạt động của Hồ Chí Minh với sứ mạng Người dẫn đường cứu nước đến thắng lợi. Tìm thấy đường lối, con đường cứu nước đã khó, tiến hành tuyên truyền vận động quần chúng và tổ chức thắng lợi đường lối ấy trên thực tế còn khó hơn nhiều. Vì trong suốt tiến trình thực tế hoá đường lối ấy, người lãnh đạo có quyết tâm chưa đủ mà còn phải đánh giá đúng tình hình, lựa chọn đúng thời điểm, địa bàn"đối nội" và phải tìm được những cộng sự có thực tế và kinh nghiệm vận động tổ chức quần chúng. Tháng 6-1923, trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp Người phác họa công việc của mình - Người dẫn đường cứu nước khi trở về Tổ quốc là: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"[12].Tuy nhiên con đường ấy còn nhiều gian truân. Người đã trải qua nhiều công việc, hoạt động ở nhiều quốc gia như: Nghiên cứu lý luận tại Đại học Phương Đông, dự nhiều Hội nghị quốc tế tại Liên Xô, làm cán bộ Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và nhiều năm làm phiên dịch trong Phái bộ Bôrôđin tại Trung Quốc (1924-1927). Cũng trong thời gian này, tại Quảng Châu, Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa năm 1927 Người trở lại Liên Xô, thực hiện nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao ở Pháp, Bỉ, Đức, Thuỵ Sĩ, Italia rồi về Xiêm, Thái Lan, Trung Quốc. Nét đặc sắc nhất cuộc hành trình cứu nước 30 năm là không bao giờ Người xa rời mục đích về nước cứu đồng bào. Khi ở Liên Xô dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên, Người nói với nhà văn I. Êrenbua: "Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở và Tổ quốc"[14]. Khi đang hoạt động trong Bát lộ quân Trung Quốc, Người vẫn bí mật liên lạc với Ban lãnh đạo Đảng trong nước chuẩn bị xây dựng căn cứ địa vùng biên giới Việt Trung. Cuối tháng 6 năm 1940, ngay sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, Người chỉ thị gấp cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi học Trường Quân chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Diên An nữa mà cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đi Quế Lâm, Nam Ninh (Quảng Tây) hướng về Cao Bằng đón thời cơ mới. Đầu năm 1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh kết thúc Hành trình cứu nước, về vùng rừng núi Cao Bằng - địa đầu Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo dân tộc thực hành đường lối cứu nước mới, mở ra giai đoạn mới trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. 4. Ra đi tìm đường cứu một quốc gia là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Nhưng tìm thấy con đường ấy và điều quan trọng tiếp theo là bổ sung, hoàn thiện nó cho phù hợp với điều kiện cụ thể rồi đưa về áp dụng trong nước là việc khó gấp bội phần. Sau nhiều lần thất bại của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên kết hợp thành công sức mạnh trong nước và quốc tế - dân tộc và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra lời giải cho "Bài toán thế kỷ" đã đặt ra trước dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Người đã khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm của nhiều thế hệ đã tìm thấy con đường cứu Việt Nam khỏi ách thống trị thực dân phong kiến. Tuy nhiên cần thấy rõ, đây không phải đơn giản là việc lựa chọn một mô hình con đường có sẵn để vận dụng vào Việt Nam. Mặc dù Luận cương của Lênin cũng như những quan điểm của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp có vị trí quan trọng trong "con đường cứu nước" mà Hồ Chí Minh tìm đến; song chỉ ngần ấy thôi, chưa phải là con đường cứu nước Hồ Chí Minh, bởi lẽ đó chỉ là những nguyên tắc lý luận, định hướng mang tính phổ biến. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, quan điểm ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam không chỉ được tạo ra bởi tác động mạnh mẽ của bối cảnh lịch sử mà còn bởi những đóng góp đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh. Thắng lợi công cuộc giải phóng ở Việt Nam đã mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi thế giới. Đó tác động trở lại của cách mạng Việt Nam với thế giới, dấu ấn của Hồ Chí Minh với thời đại. Do đó, thế giới đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất Việt Nam./. [1]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996,T1,tr.314 [2].Dẫn theo báo Nhân Dân, ngày 18 tháng 5 năm 1965 [3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.CTQG-Nxb.TN,H.1994,tr.12 [4] . Hồ Chí Minh Toàn tập,Nxb. CTQG, H.1995,t.1,tr.477 [5] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện..., Sđd,tr.12 [6] Xem: Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb.CTQG,H.1995,t1,tr.273-289 [7]. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 40-50 [8] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện...Sđd, tr.41-42 [9] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện...Sđd,tr.31 [10] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t. 10 tr.127 [11] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t12,tr.471 [12] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd,t.1 tr.192 [13] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd,t.1,tr.266 [14] Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, xuất bản lần thứ 2,Nxb.CTQG, H.2006,t.2,tr.63 | ||
Các từ khóa theo tin: | ||
PGS.TS Lê Văn Tích (Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh) |