----- Forwarded Message -----
From: binh nguyen <binh_nguyen98@yahoo.com>
To: bio vietnam <bio-vn@yahoogroups.com>; "tonghoi@yahoogroups.jp" <tonghoi@yahoogroups.jp>
Sent: Monday, July 2, 2012 4:49 PM
Subject: [CLBcSVVNtNB] Nhân nhượng là mất chủ quyền
From: binh nguyen <binh_nguyen98@yahoo.com>
To: bio vietnam <bio-vn@yahoogroups.com>; "tonghoi@yahoogroups.jp" <tonghoi@yahoogroups.jp>
Sent: Monday, July 2, 2012 4:49 PM
Subject: [CLBcSVVNtNB] Nhân nhượng là mất chủ quyền
|
|
[tonghoi]グループの掲示板に投稿があったことを、Yahoo!グループよりお知らせいたします。
---
---
http://baodatviet.vn/Home/chinhtrixahoi/chinhtri/Nhan-nhuong-la-mat-chu-quyen/20127/219952.datviet
Nhân nhượng là mất chủ quyền
Nhân nhượng là mất chủ quyền
Cập nhật lúc :6:57 AM, 02/07/2012
(Đất Việt) Nếu chần chừ, e ngại và thỏa hiệp với phía Trung Quốc, không hoạch định được một chiến lược hợp lý, chúng ta sẽ luôn ở trong tình trạng bị động đối phó và dần dần sẽ mất chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông.
>> Giải nước cờ thâm nho của TQ
>> 'Lưỡi bò' và khát vọng bành trướng
>> Tổng bí thư: Một tấc đất cũng phải bảo vệ
>> Học giả quốc tế khẳng định 9 lô dầu khí thuộc VN
>> Hoàn tất tài liệu để khởi động đàm phán COC
Hiện nay, thách thức của Trung Quốc đối với chủ quyền biển, đảo của Việt Nam ở biển Đông là hết sức nghiệm trọng. Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong mấy chục năm sau kể từ sự kiện này, Trung Quốc liên tục tiến hành các bước chuẩn bị về lập pháp, cơ sở pháp lý quốc tế và lịch sử, hành chính, chính trị và ngoại giao, thông tin tuyên truyền và sức mạnh quân sự để thực hiện ý đồ bành trướng ở biển Đông.
>> 'Lưỡi bò' và khát vọng bành trướng
>> Tổng bí thư: Một tấc đất cũng phải bảo vệ
>> Học giả quốc tế khẳng định 9 lô dầu khí thuộc VN
>> Hoàn tất tài liệu để khởi động đàm phán COC
Hiện nay, thách thức của Trung Quốc đối với chủ quyền biển, đảo của Việt Nam ở biển Đông là hết sức nghiệm trọng. Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong mấy chục năm sau kể từ sự kiện này, Trung Quốc liên tục tiến hành các bước chuẩn bị về lập pháp, cơ sở pháp lý quốc tế và lịch sử, hành chính, chính trị và ngoại giao, thông tin tuyên truyền và sức mạnh quân sự để thực hiện ý đồ bành trướng ở biển Đông.
Nhà nước Trung Quốc đã ban hành Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992, Luật về Đường cơ sở năm 1996, Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa năm 1998, Luật về các Hải đảo năm 2010; thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để "quản lý" trái phép các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam năm 2007… Mới đây (tháng 6.2010), Trung Quốc ban hành Cương yếu phát triển hải dương với tầm nhìn 2020, hoàn thiện các chính sách mới để quản lý, sử dụng, bảo vệ hải đảo, đặc biệt là đảo không có người nhằm vào khu vực quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Các hoạt động khác còn bao gồm: chương trình hỗ trợ, ưu đãi các tỉnh Quảng Tây và Hải Nam triển khai đăng ký quyền sở hữu đất đai, quản lý địa chính ở Hoàng Sa của Việt Nam và các đảo không người trên biển Đông; quy định đặt cột mốc và tên gọi hải đảo năm 2011, quy chế khai thác du lịch tới Hoàng Sa và xây dựng mở rộng các cơ sở, trạm đón tiếp trên đảo, mở đường cho việc lấn chiếm dân sự đối với các đảo nằm trên vùng biển của Việt Nam và các quốc gia khác.
Đồng thời với việc tăng cường tiềm lực hải quân và không quân (gồm cả tàu sân bay), đến nay, Trung Quốc bắt đầu triển khai chiến lược độc chiếm Biển Đông, thực hiện yêu sách chủ quyền trên thực địa thông qua các hoạt động như: tăng cường tập trận, trấn áp, khiêu khích quân sự (năm 2010 Trung Quốc đưa cả 3 hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải vào tập trận có quy mô lớn nhất từ trước đến nay); thực hiện "quân sự hóa hàng hải và quân sự hóa hoạt động dân sự" cho đội tàu giám ngư đi tuần tra vùng biển, kiểm tra, truy đuổi, sách nhiễu, thậm chí bắt giữ ngư dân của các nước đang hoạt động; đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt hàng năm trên biển Đông, ngăn cản tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam; sử dụng sức mạnh kinh tế để đe dọa các đối tác, gia tăng sức ép đối với hoạt động hợp pháp của các bên có chủ quyền tai biển Đông (ngăn cản và đe dọa các công ty nước ngoài thăm dò dầu khí trong vùng biển Việt Nam, liên tục đưa các tàu khảo sát cùng nhiều tàu bảo vệ tiến hành khảo sát địa chấn khu vực Hoàng Sa và các lô dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam…
Ngày 26.5 và ngày 9.6.2011, Trung Quốc đã ngang ngược cho tàu vào cắt cáp địa chấn tàu thăm dò của Việt Nam đang hoạt động ở vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa Việt Nam... Thực chất, đây là sự mở màn của cuộc xâm chiếm trên biển nhằm vào Việt Nam với quy mô chưa từng có trong lịch sử khu vực và thế giới. Mục tiêu của hành động này rất rõ ràng: một là, lấn chiếm gần như toàn bộ diện tích biển Đông, trùm lên một phần lớn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam nằm trong phạm vi "đường lưỡi bò"; Hai là, khẳng định độc quyền đối với toàn bộ tài nguyên thiên nhiên trong khu vực biển này; và ba là, chiếm toàn bộ các quần đảo nằm trong "đường lưỡi bò", trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Làm gì để bảo vệ chủ quyền?
Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể giữ được chủ quyền biển, đảo của mình ở biển Đông hay không? Câu trả lời là: Nếu chần chừ, e ngại và thỏa hiệp với phía Trung Quốc và không hoạch định được một chiến lược hợp lý, chúng ta sẽ luôn ở trong tình trạng bị động đối phó và dần dần sẽ mất chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông. Nếu chúng ta có bản lĩnh, trí tuệ thì với thế và lực của Việt Nam trong sức mạnh về chính trị, ngoại giao và pháp lý trong bối cảnh thế giới tương đối thuận lợi hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể giữ vững chủ quyền biển, đảo ở biển Đông.
Vấn đề đáng bàn lúc này là chúng ta cần làm gì để bảo vệ vững chắc chủ quyền ở biển Đông? Để làm phá sản âm mưu độc chiếm biển Đông và thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, làm phá sản tham vọng "đường lưỡi bò" của Trung Quốc…, một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của chúng ta là xác định được mục tiêu chiến lược hợp lý của cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Không được nhân nhượng
Trong bối cảnh hiện nay, mục tiêu chiến lược của chúng ta cần bao gồm bốn bộ phận cấu thành.
Một là, mục tiêu hàng đầu là bảo vệ bằng được thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Thực chất của nhiệm vụ này là bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, trong đó tài nguyên dầu khí và tài nguyên cá. Đây là khu vực vực biển thuộc sổ đỏ quốc gia, là quyền đương nhiên của các quốc gia ven biển theo Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc, không một ai có thể cướp đoạt được. Chúng ta phải kiên quyết bảo vệ thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý với bất cứ giá nào, không được nhân nhượng. Chỉ cần một nhân nhượng nhỏ là chúng ta sẽ mất tất cả.
Trọng tâm nhiệm vụ là ngăn chặn việc Trung Quốc cho tàu vào quấy phá các hoạt động thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của các phương tiện Việt Nam trên vùng đặc quyền kinh tế; đồng thời ngăn chặn âm mưu của Trung Quốc đặt giàn khoan hay những cấu trúc nhân tạo đầu tiên trên thềm lục địa của Việt Nam. Chúng ta cần dồn toàn bộ lực lượng, mọi phương tiện và tiến hành mọi biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý và quân sự cần thiết để đạt mục tiêu này với bất cứ giá nào. Hành vi gây hấn như đối với tàu Bình Minh 2 ngày 26.5.2011 hay đối với tàu Viking II ngày 9.6.2011 trên vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa Việt Nam, nếu để tiếp tục tái diễn, thì sẽ tạo ra tiền lệ rất xấu và hết sức nguy hiểm. Một giàn khoan hay cấu trúc nhân tạo đầu tiên của Trung Quốc, nếu đặt được trên thềm lục địa của Việt Nam sẽ giống như một "lỗ thủng" trên tuyến đê phòng ngự thềm lục địa. Nếu để xảy ra sự cố này, toàn bộ tuyến đê phòng ngự có thể bị sụp đổ, không cứu vãn được.
Hai là, kiềm chân Trung Quốc trên các đảo ở quần đảo Hoàng Sa, không để Trung Quốc áp dụng điều 47 Công ước Luật Biển năm 1982, lấy quần đảo Hoàng Sa làm các điểm cơ sở để xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý trùm lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Để đạt mục tiêu này, chúng ta cần sử dụng các căn cứ lịch sử và pháp lý vững chắc nhằm tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này
Có thể trong nhiều năm nữa, chúng ta chưa thể thu hồi được quần đảo Hoàng Sa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta mất chủ quyền đối với quần đảo này. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm quần đảo là một hành động vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và Công ước Luật biển năm 1982, nên không có giá trị xác lập chủ quyền. Chính vì vậy, chúng ta phải đấu tranh bền bỉ, không được lùi bước, không được nhân nhượng. Chỉ cần chứng minh cho thế giới thấy rằng quần đảo Hoàng Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam với đầy đủ những căn cứ lịch sử và pháp lý, chúng ta cũng đã có thể bước đầu ngăn bước tiến của Trung Quốc vào khu vực thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Ba là, đồng thời với việc tiếp tục hoàn thiện bộ hồ sơ pháp lý với đầy đủ các chứng cứ và lập luận khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, trên thực tế, chúng ta cần đấu tranh giữ nguyên trạng tại khu vực quần đảo này. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần liên kết với các nước khác là các bên tranh chấp để tạo ra đối trọng với Trung Quốc; đồng thời kiềm chân Trung Quốc trên các điểm mà họ đang chiếm giữ trái phép, không để Trung Quốc lấy quần đảo Trường Sa làm điểm cơ sở ( áp dụng điều 47 Công ước Luật Biển năm 1982) để xác lập các vùng biển lấn sâu vào vùng biển phía Tây Nam của Việt Nam. Mục tiêu này hoàn toàn có thể đạt được vì giữ nguyên trạng Trường Sa cũng là mong muốn của các nước tranh chấp khác tron khu vực.
Bốn là, xác định phạm vi 12 hải lý cho các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên cơ sở vận dụng quy định của luật biển quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là điều 121 Công ước Luật biển 1982, theo đó những đảo không có điều kiện cho con người sinh tồn và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Thực hiện được mục tiêu này sẽ giúp chúng ta thu hẹp đến hơn 95% diện tích của khu vực tranh chấp trên biển Đông; đồng thời góp phần kiềm chân Trung Quốc trên các đảo mà họ đang chiếm giữ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Như vậy, xác định được mục tiêu chiến lược hợp lý có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là định hướng cho việc hoạch định chiến lược và đề ra những biện pháp cần thiết trước mắt và trong những thập kỷ tới, góp phần làm phá sản tham vọng thôn tính biển Đông của Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh trong khu vực và trên thế giới.
PGS.TS Nguyễn Bá Diến - Chủ nhiệm Bộ môn Luật Quốc tế, Giám đốc Trung tâm Luật biển và hàng hải quốc tế, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội
PGS.TS Nguyễn Bá Diến - Chủ nhiệm Bộ môn Luật Quốc tế, Giám đốc Trung tâm Luật biển và hàng hải quốc tế, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội
======================================================
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/442039/On-hoa-nhung-khong-nhan-nhuong.html
Chủ Nhật, 12/06/2011, 10:12 (GMT+7)
Ôn hòa nhưng không nhân nhượng
TT - Từ ngày 3 đến 5-6-2011, Hội nghị an ninh châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 10) tại Singapore có nhiều quan điểm, chủ yếu tập trung vào ba nội dung chính:
Máy bay tuần thám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam để thu thập tin tức về tàu Bình Minh 02 ngày 21-5 - Ảnh: TS |
+ Mặc dù không lên án hay ủng hộ cụ thể nước nào về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, nhưng Mỹ và các nước khác trong khu vực tỏ thái độ quan ngại về những va chạm gần đây tại khu vực có thể gây ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại của tàu bè quốc tế ở eo biển Malacca. Do đó vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông là một vấn đề đa phương và phải được giải quyết hòa bình bằng đàm phán, hạn chế sử dụng vũ lực quân sự gây xung đột tại khu vực.
+ Diễn biến phức tạp trong tranh chấp biển Đông nhưng một số nước Đông Nam Á đã không trực diện phản đối Trung Quốc. Các diễn biến trên ngày càng cho thấy Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) gần như vô hiệu vì không có biện pháp chế tài đối với các nước đã tham gia ký kết.
+ Trung Quốc một mặt kêu gọi kiên trì đàm phán để giải quyết vấn đề tranh chấp, nhưng lại cố tình đưa những vụ việc xảy ra tại khu vực không có tranh chấp thành có tranh chấp (như vụ tàu Bình Minh 02 và Viking 2), tiến hành đàm phán song phương với các nước ASEAN nhằm thực hiện chiến lược chia để trị, bẻ gãy sự liên kết trong khối ASEAN rồi từ đó đi đến thỏa thuận song phương với từng nước theo giải pháp gác tranh chấp, cùng khai thác tại những khu vực chồng lấn có lợi cho Trung Quốc.
Thủ đoạn leo thang của Trung Quốc
Nhiều ý kiến đề nghị đưa vấn đề biển Đông ra Tòa án quốc tế. Tuy nhiên việc kiện ra tòa không hề đơn giản vì thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc tế theo quy định được xác lập trên cơ sở đồng thuận của các bên tranh chấp. Như vậy, nếu phía Trung Quốc không đồng ý thì tòa án cũng không đủ cơ sở để xác lập quyền tài phán.
Vấn đề tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa là một vấn đề song phương giữa hai nước có yêu sách là Việt Nam và Trung Quốc. Vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa là liên quan đến yêu sách của các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Trung Quốc do vậy cần đàm phán đa phương. Còn vấn đề chủ quyền trên biển Đông thì liên quan đến quyền lợi của cả những nước khác trên thế giới.
Để bảo vệ tối đa lợi ích của mình, Trung Quốc sử dụng nhiều thủ đoạn để làm phức tạp tình hình như cử tàu chiến và máy bay ra Bãi Cỏ Rong để răn đe Philippines. Trước đây Trung Quốc cũng đã đâm tàu và cắt cáp tàu Việt Nam rồi, nhưng khu vực xảy ra là ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Khi Việt Nam tiến hành khảo sát để lập hồ sơ báo cáo Liên Hiệp Quốc về ranh giới ngoài của thềm lục địa thì tàu khảo sát của Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc cắt cáp.
Sự kiện Bình Minh 02 cũng như phá cáp tàu Viking 2 là do tàu Trung Quốc dấn sâu hơn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Đó cũng là lý do trước khi diễn đàn Shangri-La diễn ra thì dư luận nhận định đây là một động thái của Trung Quốc nhằm răn đe Việt Nam cùng các nước trong khu vực ASEAN và Mỹ, tỏ rõ lập trường của Trung Quốc là không bao giờ nhân nhượng và từ bỏ tấm bản đồ "đường lưỡi bò" vốn kiểm soát phần lớn diện tích biển Đông.
Trong bài phát biểu sáng 5-6 tại diễn đàn an ninh cấp cao Shangri-La, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc nhấn mạnh "chỉ bằng cách ủng hộ dân chủ trong quan hệ quốc tế và tôn trọng lợi ích cốt lõi, cũng như những mối quan tâm lớn của nhau" mới có thể khiến khu vực châu Á - Thái Bình Dương "thật sự tìm thấy hòa bình lâu dài, ổn định và hòa hợp".
Tuy nhiên, xâu chuỗi hàng loạt vụ việc xảy ra từ tháng 3 tới nay trong vấn đề chủ quyền biển Đông, người ta đã không còn ngạc nhiên hay thắc mắc chuyện Trung Quốc nói vậy mà không phải vậy. Việc này đã được chứng minh một cách không thể chối cãi khi bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc tuyên bố bằng lời hay chữ đẹp thì các tàu Trung Quốc lại phá hoại tàu Viking 2.
Vấn đề leo thang tranh chấp tại khu vực quần đảo Trường Sa có thể là một ngòi nổ cho xung đột tại khu vực, nếu có xảy ra thì thiệt hại trước hết cho các nước tham gia xung đột và ảnh hưởng đến tất cả những nước có lợi ích ở khu vực.
Nhưng không có nghĩa vì điều này mà Việt Nam phải nhân nhượng với Trung Quốc, bởi vì trong không gian phát triển của Trung Quốc, phía nam là hướng tương đối ổn định, khu vực ASEAN là cửa ngõ để Trung Quốc vươn ra xa hơn. Vậy liệu Trung Quốc có thể "cắt" cái cửa này được không, làm cho khu vực này có những quốc gia không bằng lòng với chính sách của Trung Quốc được không?
Những việc cần làm ngay
Giải pháp hòa bình trên biển Đông vẫn là mục tiêu Việt Nam theo đuổi, tuy nhiên hiện nay DOC chưa có chế tài nào để các nước cam kết thực thi thì việc ra đời Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC) là việc làm cần thiết nhằm duy trì trật tự và hòa bình trên biển Đông. Cuộc họp cấp cao ASEAN vừa qua ở Jakarta (Indonesia) cũng đặt ra mục tiêu kêu gọi các bên sớm đạt được COC vào năm 2022 nhưng thời hạn này là quá lâu. Vì lẽ Trung Quốc liên tục quấy phá các vùng biển trong khu vực và họ sẽ đưa giàn khoan lớn đến khoan tại các vùng nước sâu ở biển Ðông vào tháng 7 năm nay.
Do đó giải pháp trước mắt của Việt Nam là:
(1) Kiên quyết trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ khi đàm phán với Trung Quốc và ASEAN, để có được sự ủng hộ cần thiết nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của mình tại đây. Quốc hội cần nhanh chóng hoàn chỉnh và ban hành luật biển. Chuẩn bị sẵn sàng đối phó, chủ động trong mọi tình huống bất ngờ về xung đột vũ trang có thể xảy ra.
(2) Việt Nam cần gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế.
(3) Mời gọi và bảo vệ các công ty dầu khí nước ngoài, thí dụ như Mỹ, Anh, Nga, thăm dò và khai thác tài nguyên vùng đặc quyền kinh tế.
(4) Mặt khác, với chiến lược biển đến năm 2020 thì ngư dân Việt Nam cần vươn ra khơi xa với sự bảo vệ của lực lượng kiểm ngư (đã có đề án thành lập). Các tàu của ta trong vùng biển Ðông cần có đủ phương tiện ghi lại các hành động vi phạm, cản trở, uy hiếp... của tàu Trung Quốc làm bằng chứng và lập thành hồ sơ để công bố chứng cứ với quốc tế về các vi phạm những thỏa thuận song phương, đa phương và luật pháp quốc tế.
NGUYỄN TRỌNG BÌNH - LÊ VĨNH TRƯƠNG - PHẠM THU XUÂN
(Quỹ Nghiên cứu biển Đông)
(Quỹ Nghiên cứu biển Đông)
Help URL : http://help.egroups.co.jp/
Group URL : http://www.egroups.co.jp/group/tonghoi/
Group Owner: mailto:tonghoi-owner@egroups.co.jp
---
なお、投稿者は本メールの送信者欄に表示されている方です。