Tiến Sĩ Kinh Tế Đinh Xuân Quân
Tác giả đã làm việc cải tổ kinh tế tại nhiều nước nhằm vào “quy trình đánh giá các dự án đầu tư” (PIP tại nhiều nước);
Tác giả đã làm việc cải tổ kinh tế tại nhiều nước nhằm vào “quy trình đánh giá các dự án đầu tư” (PIP tại nhiều nước);
TS Đinh Xuân Quân tốt nghiệp Tiến Sĩ Kinh Tế hạng Ưu tại Đại Học Sorbonne, Pháp, năm 1974. Trước đó, năm 1972, ông đã lấy MBA tại Hoa Kỳ, đại học Temple, Philadelphia, Pennsylvania. Ông cũng có bằng đặc biệt về International Banking tại Đức (1974), Industrial and Commercial Credit, từ Banque Francaise pour le Commerce Exterieur, Paris, France, 1974.
Trước 1975, ông về Việt Nam phục vụ tại Quỹ Phát Triển. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo. Ông đã cố gắng vượt biên 9 lần. Đến năm 1978 thì ông thành công khi vượt biên lần thứ 9. Ông vượt biên bằng thuyền, đem theo Mẹ và cháu gái, đến Thái Lan, và sang Hoa Kỳ. Ngay khi đến Hoa Kỳ, ông đã bắt đầu đi làm 3 việc để xây dựng lại đời sống trong lúc đóng góp lại cho xã hội. Ông viết nhiều báo và tiếp tay với nhiều hội đoàn Việt để mong hỗ trợ tiếng nói của người Việt tỵ nạn. Năm 1980 – 1981, ông bắt đầu làm việc với USAID trong vai trò Trưởng các dự án phát triển nông nghiệp. Từ 1982 đến 1990, ông làm cho Ngân Hàng Thế Giới trong nhiều chương trình phát triển các nước thứ ba tại Guinea, Tây Phi, Trung Phi (CAR), Kenya, Madagascar, Zaire. Năm 1992, 1994-1997 qua chương trình của UNDP, ông làm cố vấn cho chính quyền Việt Nam để giúp hướng dẫn một số cải tổ về hành chánh, nhân sự, và đầu tư. Từ 2000 đến nay, ông giúp cố vấn cho nhiều chính quyền các nước hậu chiến, đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế và hành chánh, để giúp ổn định tình hình và phát triển khả năng tài chính của các quốc gia này. Ông đã cố vấn cho chính phủ các nước như Iraq, Liberia, Afghanistan, Sudan, Kosovo, Indonesia…
Ngày 2 tháng 5, 2009, Ông tham dự buổi Hội Luận “Hành Trình Tìm Tự Do của người Việt: Nhìn lại câu chuyện Thuyền Nhân” tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, với bài tham luận nói lên câu chuyện hy hữu của đời ông, “Từ Tù Cải Tạo đến Cố Vấn Chính Phủ” [From Prisoner to Advisor] như một tấm gương không ngừng đóng góp cho sự cải tiến đất nước đến mức tốt đẹp hơn.Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân là cố vấn cho Voice of Vietnamese Americans.Theo Ngân Hàng Thế Giới (WB) VN là một “thành công” – tăng trưởng trung bình 7.3% trong thời gian 1995-2005 và tăng trưởng đầu người là 6.2%/năm [1]. GDP/đầu người tăng từ $260/người/năm vào 1995 lên $1,000/người/năm vào 2009. Theo WB [2] từ khi vào WTO năm 2007, VN nay xuất khẩu rất nhiều hàng may mặc, giầy dép, bàn ghế, vv.
I. KINH TẾ VN TRONG NĂM 2009
1. Lạm phát
Theo bản báo cáo đầu năm 2010 của Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng thì “… Hai năm 2008-2009, nhân dân ta, đất nước ta phải đương đầu và vượt qua nhiều khó khăn, thách thức gay gắt do những biến động bất thường và trái chiều của kinh tế thế giới, làm nặng nề thêm những yếu kém nội tại của nền kinh tế và làm hạn chế khả năng lựa chọn chính sách ứng phó và phát triển của chúng ta.
…. Tác động tổng hợp của những yếu tố lạm phát, giá lương thực, xăng dầu và giá hầu hết các mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh, đẩy mặt bằng giá trên thị trường nội địa lên cao. Mặt khác, chính sách tài chính, tiền tệ được nới lỏng trong nhiều này đã làm chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta tăng nhanh lên hai con số, cao hơn một số nước trong khu vực, sản xuất và đời sống gặp nhiều khó khăn, gây lo lắng và phân tâm trong xã hội…”
Nghiên cứu của ĐH Havard [3] ngược lại cho VN còn nhiều yếu kém và tốc độ tăng trưởng sẽ giảm xuống nếu không thay đổi “cơ cấu.” Dự báo của EIU cho thấy trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng trưởng của VN chỉ có thể duy trì ở mức 5,1% mỗi năm, thay vì ở mức trên 8% như hiện nay. Thực tế ra sao?
I. KINH TẾ VN TRONG NĂM 2009
VN nay đạt mức $1,000/đầu người/năm được xếp vào nhóm các nước có lợi tức hạng trung (> $1,000). Việc gia nhập WTO năm 2007 đã giúp VN tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và gián tiếp của Việt Kiều còn gọi là Kiều hối gia tăng và khu vực tài chính đã được mở rộng. Năm 2008 & 2009, kinh tế VN đã bước vào một giai đoạn đầy nguy cơ bất ổn vì những dao động của kinh tế toàn cầu.
Tăng trưởng GDP VN
Năm —– GPP/Năm
2006 —– 8.4
2007 —– 8.5
2008 —– 6.1
2009* —– 5.25* – 5.3 **
2010*—– <6*
* Nguồn và dự đoán của IMF ** Theo VN
Tăng trưởng kinh tế của VN bị ảnh hưởng nặng nề vì tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến VN qua việc: 1) Giàm xuất khẩu (giầy dép, may mặc, vv); 2) Giảm đầu tư FDI và kiều hối (giảm 20% ước lượng từ 7.2 tỷ vào 2008 còn 6-6.8 tỷ năm 2009); 3) Giảm viện trợ ODA; và 4) Tiền tiêu du khách sẽ giảm (khách du lịch quốc tế chỉ đạt 3,8 triệu lượt người giảm 11.8%)
VN đã đưa ra một gói “kích thích kinh tế” [4] (các chính sách về tài chính, tiền tệ, miễn, giảm, giãn thuế, hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay sản xuất, kinh doanh, mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ nông nghiệp, các khoản vay của hộ nghèo và đối tượng chính sách..) nhưng những gói này không có hiểu quả cao vì nhằm vào các DNNN và khu vực công. Trong năm 2009 kinh tế VN đang trong tình trạng “nóng” và lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng, thâm hụt ngân sách và thương mại ngày càng lớn, và bong bóng giá bất động sản ngày càng lớn gây them nhiều khó khăn trong tương lai nhất là những yếu kém cơ cấu. Nói tóm tăng trưởng có thấp nhưng cũng không quá bết và gần đây, VN thành công trong việc được hứa USD 8 tỷ viện trợ ODA.
1. Lạm phát
Việc tăng giá dầu và một số hàng trên thế giới là những nguyên nhân dẫn tới việc tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI = tỷ lệ lạm phát). Nhưng lạm phát tại VN chủ yếu xuất là do cơ cấu của kinh tế VN vì các nước láng giềng TQ, Thái Lan, Malaysia … cũng đều phải chịu sức ép tương tự nhưng lạm phát ở các nước này lại thấp hơn một cách đáng kể so không lên đến hai số như ở VN
CPI (Tỷ lệ lạm phát tại VN)
2007 —– 2008—– 2009—– 2010
12.6—– 28.25—– 17.50—– 10-12*
Nguồn: IMF reports 2009 *ước đoán
Tại sao lạm phát? Nguyên nhân chính của lạm phát là VN nhận quá nhiều vốn [5] từ bên ngoài khoảng 22-23 tỷ USD (tương đương 30% GDP). Do đó Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) tăng cung tiền, tăng tín dụng, và đầu tư khu vực công đều đạt mức kỷ lục với các Doanh Nghiệp Nhà Nước (DNNN) với hiệu quả thấp. Khi số tiền đổ vào nền kinh tế quá cao, lại không được sử dụng một cách hiệu quả để sản xuất sẽ đi đến tình trạng “quá nhiều tiền nhưng quá ít hàng” và hậu quả dĩ nhiên là “lạm phát.”
Từ 2005 đến 2007, số tiền tăng tổng cộng 135% trong khi đó GDP chỉ tăng 27%. Chiến lược tăng trưởng của VN dựa vào đầu tư (duy trì tỷ lệ đầu tư nội địa cao hơn tỷ lệ tiết kiệm nội địa) đã gây lạm phát.
Tại sao giá đất lại cao và tăng nhanh như vậy? Tác giả này có viết nhiều trong quá khứ và giống phần nào trường hợp của Nhật trong những thập niên 70. Trong nhiều năm, VN đã không giải quyết nhu cầu địa ốc cho nên có tình trạng thiếu thăng bằng giữa “cung- cầu” về địa ốc gây việc giá nhà cao. Mặc dù lợi tức kém hơn nhiều nước láng giềng nhưng giá bât động sản và địa ốc tương đương Nhật hay Mỹ. Đây là bằng chứng về mức độ bong bóng của giá bất giá động sản/dịa ốc ở VN.
Nguồn tiền US$ dồi dào – gói “kích thích kinh tế” – “dễ dãi tín dụng” đã làm tăng nhập khẩu và lạm phát, khiến cho một phần lớn nguồn lực kinh tế bị chuyển sang mục đích “phi sản xuất – đầu cơ.” Các yếu tố này giúp tăng tín dụng đầu tư địa ốc/bất động sản. Tiền do tham nhũng và thất thoát trong đầu tư xây dựng Hạ tầng cơ sở (HTCS) cũng được đầu cơ vào địa ốc. Bong bóng tăng thêm vì các DNNN không cần thế chấp cũng có thể vay NH được – hậu quả là di chuyển nguồn lực từ các lĩnh vực kinh doanh sang hoạt động “đầu cơ bất địa ốc.”
Việc này sẽ gây những rủi ro cho hệ thống tài chính ngân hàng (giống như trường hợp Mỹ & Nhật – ngân hàng thương mại cho các nhà đầu cơ và phát triển vay địa ốc dựa trên tài sản thế chấp với giá đã được thổi phồng. Với những yếu kém hiện nay, hệ thống tài chính VN rất có thể nguy cơ gặp “sóng gió” như bài của GS Kenichi Ohno [6] là một phân tích đúng đắn.
2. Thâm hụt ngân sách – Thâm hụt thương mại – Thiếu sức cạnh tranh
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy là thâm hụt ngân sách 3% được coi là lo ngại, trong khi >5% thì bị coi là đáng “nguy hiểm”. Hiện nay, thâm hụt ngân sách của VN ở mức 8.75% GDP vào 2009. Nếu tính các khoản chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần đây thì thâm hụt ngân sách lên tới 20-25% tổng ngân sách, một tỷ lệ quá cao.
Tại sao thâm hụt ngân sách? Đẩu tư khu vực công có hiệu quả kém (vì thất thoát – tham nhũng) là nguyên nhân gây ra lạm phát và việc lãng phi/kém sức cạnh tranh. VN đã phê chuẩn một danh sách các dự án đầu tư công đầy tham vọng từ nay cho tới 2015 với tổng số vốn ước tính lên tới 70 tỷ USD.
Chất lượng kém của “đầu tư trong khu vực công” vì yếu tố thiếu cạnh tranh/thiếu đấu thầu. Báo chí VN cũng đưa tin về những dự án hạ tầng cơ sở (HTCS) bị đội giá … VN phí phạm rất nhiều với một số ví dụ sau đây:
Trong nhiều trường hợp dự án được lựa chọn không dựa trên các tiêu chuẩn kinh tế – tài chính thích hợp. Ví dụ VN đang cho đầu tư xây dựng 6 cảng theo bờ biển miền Trung (Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đànẵng, và Thừa Thiên-Huế) trong khi đó HTCS ở Saigon, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa–Vũng Tàu, nơi có 60% lượng gia tăng dân số và lao động của cả nước, đang bị quá tải một cách trầm trọng nhưng không được đầu tư. Về mặt kinh tế không có lý do chính đáng để đầu tư vào các cảng nhỏ này vì chỉ có cảng Saigon có hy vọng quốc tế nằm trong các luồng vận tải hàng hải thế giới.
Dự án đầu tư 33 tỷ đô-la cho đường sắt cao tốc Bắc – Nam quá sớm – sẽ đóng góp không đáng kể trong thời gian này cho tăng trưởng kinh tế, trong khi gia tăng gánh nặng nợ cho quốc gia và giảm cơ hội đầu tư cho các dự án khác cấp thiết hơn nhiều.
Dự án đầu tư cho nhà máy lọc dầu Dung Quất đã được trù tính từ 1990 và năm 2009 vẫn chưa sản xuất và chi phí đã nhân gấp 5 lần so với dự tính lúc đầu $550 triệu (công suất 6,5 triệu tấn mỗi năm/148 ngàn thùng mỗi ngày.) Theo Petro Vietnam thì 2010, Việt Nam sẽ khởi công xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 tại Nghi Sơn – Thanh Hóa (tại sao?) và nhà máy lọc dầu số 3 tại Long Sơn – Bà Rịa – Vũng Tàu với công suất khoảng 10 triệu tấn mỗi năm.
Dự án đầu tư cho nhà máy điện hạt nhân ở thời điểm hiện nay là quá sớm. QH đã thông qua đề án xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân mặc dù không có thông tin đầy đủ. Hai nhà máy điện hạt nhân với tổng sản lượng 4,000 megawatts, đặt tại tỉnh Ninh Thuận được dự trù tốn khoảng $11.2 tỉ USD theo thời giá hối suất hiện nay). Theo tính toán của ông Phùng Liên Ðoàn, một chuyên gia quốc tế về điện hạt nhân thì từ khi bắt đầu xây dựng năm 2014 đến khi hoàn thành năm 2020 (như dự trù), tốn phí sẽ lên khoảng $35 tỉ USD [7].
Những chương trình như “Một triệu tấn đường” hay “đánh bắt cá xa bờ” và phong trào xây dựng các khu công nghiệp, và mới đây là “khu kinh tế trên thực tế” là không đem lại nhiều lợi ích cho người dân ở các khu vực nông thôn.
Thâm hụt ngân sách cao – là do các đầu tư khu vực công, và nếu tiếp tục thì sẽ có nguy cơ lạm phát và thâm hụt thương mại. Hiện nay đều tư công chiếm khoảng 18% GDP và 45% tổng đầu tư toàn xã hội và có còn thể cao hơn nhiều. Qua việc này những “người hay nhóm có thế lực chính trị” thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục lợi cá nhân và trở nên giàu có một cách bất chính.
Theo bảng 1 VN và Malaysia là 2 nước sử dụng đầu tư kém nhất. Việc sử dụng vốn một cách yếu kém sẽ ảnh hưởng đến tương lai và tính cách cạnh tranh của kinh tế VN.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy là thâm hụt thương mại 5-10% được coi là đáng lo ngại trong khi VN thâm hụt thương mại khoảng 16% GDP. Mức thâm hụt hiện nay coi là đáng nguy hiểm. Nếu không có vốn đầu tư, kiều hối và viện trợ nước ngoài đổ vào ồ ạt trong mấy năm nay thì tình trạng thâm hụt ngân sách và thương mại ở mức độ nghiêm trọng hơn.
Tại sao thâm hụt thương mại? Sự phụ thuộc vào FDI (Foreign Direct Investment) – ngoải việc nhập khẩu các hàng xa xỉ – là một yếu tố thâm hụt. Các Doanh nghiệp (DN) FDI nhằm xuất khẩu như các DN giầy dép nhập khẩu máy khâu, nguyên liệu để sản xuất và xuât khẩu. DN điện nhập khẩu các linh kiện để láp ráp. Việc gia công, gây việc làm nhưng mang hiệu quả và giá trị gia tăng thấp. Hiện nay trị giá gia tăng hàng nội địa trong xuất khẩu chưa quá 40%. Đây là khu vực VN cần cố gắng.
Tỷ lệ thâm hụt thương mại VN/GDP
Tỷ lệ thâm hụt thương mại VN/GDP
2007 —– 2008 —– 2009*
-9.75 —– -10.25 —– -16%*
Nguồn: IMF reports 2009
Mặc dù được nhiều vốn từ bên ngoài (kể cả kiều hối) so với các nước á châu khác, cách sử dụng vốn vay nước ngoài cho thấy VN sử dụng quá kém, không có sức cạnh tranh. Tỷ lệ ICOR (Incremental capital output ratio – tỷ lệ số vốn đầu tư và sản xuất) cho thấy VN chưa sử dụng tốt vốn đầu tư.
Bảng 1: Hiệu quả đầu tư
VN xuất khẩu gạo, café, cao su, hạt tiêu, đồ biển, vv và sản phẩm công nghiệp nhẹ như quần áo, giầy dép, trang trí nội thất. Việc này do các doanh nghiêp cỡ nhỏ vá DN nước ngoài trong khi các DNNN chỉ xuất dầu khí là chính. Khu vực DNNN không tạo ra nhiêu việc làm, nhưng chiêm gân một nửa trị giá đầu tư doanh nghiệp.
II. NHỮNG YẾU KÉM CỦA VN – TƯƠNG LAI
Những yếu kém trong năm 2009 chính là: lạm phát, quy trình xét các dự án đầu tư công để giảm phung phí, thiếu hiệu năng cạnh tranh.
Những nghiên cứu kinh tế phân tích tại sao một số nước á châu thành công được tóm trong cuốn “The Asian Miracle.” Một số chuyên gia cho là tính “thân thiện với thị trường” của các chính sách kinh tế của các nước á châu này trong khi một số chuyên gia khác tập trung vào vai trò can thiệp của nhà nước trong việc thúc đẩy công nghiệp hóa. Hai nhóm đều đồng ý vào một số yếu tố thành công gồm: Giáo dục; Cơ sở hạ tầng; Doanh nghiệp và cạnh tranh quốc tế; Hệ thống tài chính; Hiệu năng của Nhà nước; và Công bằng xã hội
Nghiên cứu Havard [8] đã cập nhật hóa những bài học thành công để chỉ hướng đi cho VN trong tương lai.
1. Giáo dục
Hệ thống giáo dục VN đang khủng hoảng. Năm 2000, tỷ lệ lao động có bằng đại học chỉ chiếm 2% trong khi tỷ lệ này là 5% ở TQ và 8% ở Ấn Độ. Vào năm 2005, tỷ lệ sinh viên đỗ đại học là 16%, trong khi con số này ở TQ và Indonesia là 17%-19%, và 43% tại Tháilan. Mặc dù số lượng sinh viên đại học đã tăng nhưng những hạn chế về lượng và chất của các trường đại học VN cho thấy chưa đúng tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ các giảng viên các trường đại học VN có rất ít bài đăng trên các tạp chí quốc tế [9].
Tuy số sinh viên ra trường ít, phân nửa sinh viên ra trường không được làm đúng ngành đào tạo. Ví dụ hãng Intel cần mướn trên 2,000 chuyên viên thì họ chỉ tìm được dưới 50 người vì không tìm được nhân sự có đủ tiêu chuẩn kỹ thuật và ngoại ngữ. Hậu quả mỗi năm VN (chính phủ, tổ chức, và cá nhân) chi khoảng 1 tỷ đôla cho việc du học.
Cơ cấu quản trị theo kiểu XHCN (cách tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt), đổ tiền vào giáo dục không giải quyết được những vấn đề cơ bản của nền giáo dục VN để phù hợp với nhu cầu của thị trường trừ khi có thay đổ cơ cấu và GS. Hoàng Tuỵ đã lập luận một cách thuyết phục [10] về vấn đề này.
TQ khuyến khích các trường ĐH xâm nhập thị trường chất xám trong khi ngược lại VN chưa sẵn sàng mà lại còn “săn lung” các người yêu cầu “cải cách” hay đóng cửa các phương tiện truyền bá tư tưởng (trường hớp web Tia Sáng). Tình trạng khủng hoảng trong giáo dục đại học là một trở ngại cơ bản cho sự việc phát triển của VN trong tương lai.
2. Hạ tầng cơ sở (HTCS)
Xây dựng HTCS là cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế trong đó có điên và một số HTCS khác. Nếu thiếu điện, hay nếu giá điện quá cao thì tăng trưởng kinh tế sẽ bị chậm trễ. Hiện nay chính sách năng lượng của VN có nhiều sai lầm.
Việc “Công ty điện EVN” đầu tư quá nhiều vào thủy điện đã gây tình trạng thiếu điện trong mùa khô chưa kể gây “tai hại” trong mùa mưa vì xả nước của các đập như trường hợp Bình Định vài tháng trước. Việc đầu tư vào “điện hạt nhân” là một ví dụ khác là đi quá sớm. Các DNNN trong đó có EVN chỉ hoạt động tốt nhất nếu tập trung vào nhiệm vụ chính (làm ra điện) và thực hiện nhiệm vụ này. Là một Tổng Công ty (TCT) EVN bị phân tán bởi các hoạt động kinh doanh ngoại vi (địa ốc hay gây dựng ngân hang). Muốn giúp tình trạng thiếu điện cần khuyến khích đầu tư của tư nhân trong lĩnh vực này.
Các dự án đầu tư HTCS còn bị phung phí hoặc là vì đối tượng của “tham nhũng” và của lãng phí. Trong khi nguồn lực bị phung phí vào các dự án ít lợi kinh tế, HTCS đô thị tại miền Nam lại ít được đầu tư và sẽ mang đến tình trạng suy giảm hoạt động kinh tế của các tỉnh miền Nam.
VN đang lãng phí rất nhiều tiền của vào các mục đầu tư công kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân là quyết định đầu tư công (của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ quản và chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích) không được đánh giá một cách thực sự khách quan. Một Hội đồng thẩm định dự án sẽ này sau đó cần được công bố một cách công khai.[11]
3. Doanh nghiệp – Cạnh tranh quốc tế – Tài chính
Từ 1994, VN đã tập hợp các DNNN để hình thành các tổng công ty (TCT). Mô hình của các TCT là “mô hình keiretsu” của Nhật Bản (như Mitsubishi, Mitsui v.v.) và mô hình chaebol của Nam Hàn (như Samsung, Daewoo, Kumho v.v.). Điều khác biệt quan trọng giữa các chaebol hay keiretsu với các TCT là tính cạnh tranh quốc tế.
Hiện nay kinh tế VN có vẻ càng bị thống trị bởi các tập đoàn kinh tế nhà nước. TCT như Petro Việt Nam, Vinashin, và EVN đang thành lập hay kiểm soát ở một số ngân hàng để mở rộng lãnh địa của mình [12] nhưng việc xếp hạng năng lực cạnh tranh của “Diễn đàn Kinh tế Thế giới,” cho thấy VN còn thua hầu hết các láng giềng Đông Á và Đông Nam Á.
Vì yếu kém trong quản lý vĩ mô về tái chính, khu vực ngân hàng sẽ dễ bị liên lụy vì cơ cấu các DNNN. Cách làm việc các ngân hang công sẽ ảnh hưởng xấu đến các ngân hang cô phần hay tư.
4. Hệ thống tài chính
Sự lúng túng của VN trong việc đối phó với lạm phát trong năm 2008 và khủng hoảng toàn cầu năm 2009 chứng tỏ việc quản lý kinh tế vĩ mô có “vấn đề” và VN thiếu nơi có thể thảo luận, phân tích các chính sách kinh tế tài chính (trong khi nhóm IDS phải tự giải tán).
Hệ thống tài chính nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Thị trường tài chính (thị trường vốn + thị trường tiền tệ), tùy thuộc rất nhiều vào niềm tin, vào sự minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vì những lý do đó chính phủ phải đóng một vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống. Vì kinh nghiệm xấu hồi “khủng hoảng tài chính á châu” các chính phủ Đài Loan và Nam Hàn cấm các tập đoàn công nghiệp mở ngân hàng, chống lại việc sáp nhập các thế lực tài chính và công nghiệp. Tại VN hiện việc này chưa có.
5. Hiệu năng của Nhà nước
Kinh nghiệm các “con hổ” Á châu cho thấy họ thành công vì:
Có sự cách biệt giữa các chính sách phát triển và nhóm lợi ích đặc biệt;
Các chính phủ xây dựng HTCS kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y tế, và an ninh công cộng và kinh tế vĩ mô được điều hành bởi những “Professionals – nhà chuyên môn” với mục tiêu phát triển đất nước.
Tôn trọng pháp luật, và việc độc lập của hệ thống tư pháp – không bị chi phối bởi các thế lực chính trị hay đảng phái. Nó gây một môi trường tốt cho kinh tế và đầu tư và đề cao việc chống tham nhũng.
Các quyết định được dựa trên những phân tích chính sách có chất lượng, trong suốt và kịp thời. Có tranh luận trong và ngoài chính phủ về nội dung và đường hướng của chính sách kinh tế. Nhờ vậy tham những ở mức thấp.
Các chính phủ xây dựng HTCS kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y tế, và an ninh công cộng và kinh tế vĩ mô được điều hành bởi những “Professionals – nhà chuyên môn” với mục tiêu phát triển đất nước.
Tôn trọng pháp luật, và việc độc lập của hệ thống tư pháp – không bị chi phối bởi các thế lực chính trị hay đảng phái. Nó gây một môi trường tốt cho kinh tế và đầu tư và đề cao việc chống tham nhũng.
Các quyết định được dựa trên những phân tích chính sách có chất lượng, trong suốt và kịp thời. Có tranh luận trong và ngoài chính phủ về nội dung và đường hướng của chính sách kinh tế. Nhờ vậy tham những ở mức thấp.
Tại VN sự cấu kết giữa “đảng và nhà nước” trong các đầu tư công có hiệu quả là “hiệu năng nhà nước” thấp, dìm khu vực tư và gây tham nhũng.
Việc này đi đôi với việc sử dụng hiểu quả vốn vay nước ngoài và các định chế QT và hơn nửa VN ngày cải phải vay tiền với mức lãi suất cao hơn (tiền Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) với thời hạn vay 25 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất áp dụng là Libor (6 tháng) và chi phí quản lý 0,25% tổng số tiền vay).
Trong Bản 1 tỷ lệ ICOR cho thấy VN còn kém trong hiễu năng cạnh tranh. Trong việc này, VN có thể vay các định chế quốc tế để giúp khu vực tư có thêm đầu tư và mở cửa cho cạnh tranh là cần thiết. Việc này sẽ tăng gia hiệu năng cạnh tranh.
6. Công bằng
VN có tiến bộ nhưng vẫn chưa có một mức sống “chấp nhận được” theo tiêu chuẩn quốc tế. Muốn có ổn định xã hội thì VN sẽ phải đảm bảo cho số 30% dân nghèo nhất nước về các lĩnh vực giáo dục, y tế, và lưới an sinh xã hội.
Y tế có ảnh hưởng quan trọng mà nay người dân phải gánh chịu một tỷ lệ chi phí y tế cao vì hệ thống y tế ở xã và huyện còn kém. Nhiều người không nhận được những chăm sóc y tế sơ đẳng. [13]
Việc bất bình đẳng ngày càng gia tăng tại VN và bằng chứng là tỷ số Gini của VN là 0,41 [14]. Ngoài ra VN cũng nên bỏ chế độ hộ khẩu vì nó đã trở thành một công cụ “hành dân” và từ chối quyền tiếp cận dịch vụ công chính đáng của người nhập cư
Việt Nam: Trì Trệ Kinh Tế năm 2009 và Dự Đoán cho 2010.
Vào đầu năm nay, báo Wall Street Journal, ấn bản Á Châu, báo cáo sự quan ngại của các công ty về việc Việt Nam ngày càng gia tăng sự chế tài trong việc kinh doanh, trong khi đất nước gồng mình gánh sự suy thoái kinh tế, lạm phát gia tăng, và tiền tệ bị phá giá nặng nề. Từ thập niên 1990, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam đã tạo nhiều ngưỡng mộ cho các quốc gia đang phát triển trong vùng Đông Nam Á. Ngân Hàng Thế Giới đã gọi Việt Nam là một câu chuyện thành công với GDP trung bình là 7.3% trong khoảng 1995 – 2005 và 6.2% GDP hàng năm cho mỗi đầu người [1]. tăng từ $260/ người trong năm 1995 đến $1000/ người năm 2009. Hiện nay, GDP đã giảm xuống còn 5.3% năm 2009, với lạm phát cao và có thể bị vấn đề bong bóng trong thị trường nhà cửa.. Năm 2009 đã là năm có nhiều chao đảo cho Việt Nam.:
Việt Nam sa lầy sâu hơn dưới con mắt của các nhà quan sát chính trị:
Năm 2009, Việt Nam chặn Facebook và Twitter không cho vào Việt Nam, đồng thời bắt giam một số nhà hoạt động dân chủ. Nhiều người tranh đấu này sẽ phải ra trước một tòa án do Đảng Cộng Sản giật dây.
Việc tự giải thể của nhóm IDS, một “think tank”, nhóm nghiên cứu gồm nhiều đảng viên từng thân thiết với chính quyền, là một dấu hiệu khác cho thấy sự bất ổn của giới trí thức Việt Nam trong nước. Việc IDS giải thể là một khúc rẽ cho các nhà trí thức Việt Nam đang hoạt động cho các mạng điện tử đẩy mạnh sự cổ vũ cho nhiều chương trình kinh tế tại Việt Nam như www.bausitevietnam.info , đề nghị Việt Nam có thái độ “độc lập” hơn với đàn anh Trung Cộng. Những người này đã bị công an nhà nước triệu tậ p và làm khó dễ, đòi họ phải “giải thích và bào chữa” cho thế đứng của họ, trong lúc các trang điện tử của họ bị tin tặc tấn công và làm cho phải đóng cửa. Chiến thuật mạnh tay này làm các nhà quan sát liên tưởng đến sự tranh đấu dai dẳng giữa Google và chính quyền Trung Cộng.
Đám Mây Đen đe dọa các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam đã cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam đang sợ hãi, mất bình tĩnh, và không cởi mở như trước nữa. Chủ Tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết mới đây đã thăm Đức Giáo Hoàng tại Vatican, nhưng các tin xấu liên tiếp xảy ra giữa các chính quyền cộng sản địa phuong và các giáo dân về việc nhà nước ngang nhiên chiếm đất thánh, gồm cả việc hạ thánh giá gần thánh địa ở Đồng Chiêm (gần Hà Nội) cho thấy Việt Nam đang sử dụng chiến thuật mạnh tay.
Việc Chùa Bát Nhã với gần 400 nhà tu hành bị trấn áp bởi du đãng và nhà nước để phải bỏ chùa ra đi cho thấy sự đàn áp tôn giáo ngày càng gia tăng. Thiền Sư Nhất Hạnh cáo buộc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã thuê du đãng tấn công thiền viện, nhưng chính quyền bác bỏ việc liên quan tới chuyện bắt đệ tử của Thầy Nhất Hạnh phải rời tu viện. Các điều này không thể nào trấn an được các quan sát viên.
Doanh nghiệp Việt Nam đối đầu nhiều thách thức. Biện Pháp Mạnh của Chính quyền?
Câu chuyện mới nhất về kinh doanh tại Việt Nam có liên hệ đến hai vị Giám Đốc Điều Hành người Úc, và việc bắt giam Cựu Tổng Giám Đốc Jestar Pacific Lương Hoài Nam vì tội : “Thiếu tinh thần trách nhiệm tạo nhiều thất thoát đáng kể”, sẽ làm các nhà đầu tư phải suy nghĩ lại khi muốn kinh doanh với Việt Nam. Hai vị lãnh đạo của Jestar Pacific và Qantas’ tại Việt Nam bị cấm không được rời Việt Nam, và không được về thăm nhà trong dịp Giáng Sinh vừa qua. Năm 2009, một cuộc điều tra về tổ chức Jestar Pacific – một tổ chức Việt Úc – báo cáo thất thu $31 triệu Mỹ kim vì tiên đoán lầm giá xăng dầu.
Chính quyền Việt Nam cấm hai vị Giám Đốc này ra khỏi nước vì “theo sự đòi hỏi của pháp luật.” Việt Nam có một số luật nghiêm khắc trong sách vở về việc làm thất thoát tài nguyên quốc gia vì quản trị sai lầm, và có thể kết tội trước pháp luật vì hậu quả rủi ro của doanh nghiệp. Trường hợp Jetstar cũng không phải là một ngoại lệ. Các nhà phân tích lo ngại rằng việc lưu giữ hai nhân vật cao cấp và bắt ông Nam của Jetstar về tội làm thất thu vì xăng nhớt – một chuyện tương đối bình thường trong nghề – cho thấy việc đi lùi của nỗ lực cải tổ kinh tế . Với việc lạm phát tăng nhanh và khủng hoảng tài chánh toàn cầu ảnh hưởng lớn đến sự xuất cảng quan trọng của đất nước, có người cho rằng chính quyền phản ứng bằng cách giảm bớt tự do kinh tế và tự do cá nhân. Đây không phải lần đầu tiên Việt Nam bắt nhân viên của hãng ngoại quốc sau khi thua lỗ và dùng chiến thuật mạnh để lấy lại tiền. Năm 2006, chính quyền Việt Nam bắt 4 nhân viên của ABN AMRO, một nhà băng Đức , với tội lường gạt khi Việt Nam bị thua lỗ trong hợp đồng về tiền tệ. Để chấm dứt việc cãi vã, ngân hàng Đức đã trả Việt Nam $4.5 triệu Mỹ kim cho một ngân hàng nhà nước của Việt Nam.
Tuy Việt Nam đã chế tài một số quyền tự do, Việt Nam đã hứa vào tháng 11 là họ sẽ cho phép người nước ngoài làm chủ 49% doanh nghiệp địa phương, tăng lên nhiều so với 30% . Khi Đảng Cộng Sản Việt Nam khuyến khích phát triển kinh tế nhưng vẫn không từ bỏ sự độc quyền, độc tài, thì họ chỉ tạo thêm nhiều va chạm với các bạn hàng thế giới.
Kỳ Vong gì vào năm 2010:
Việt Nam cho chúng ta một số tiên đoán lẫn lộn, dựa theo nhiều dữ kiện dưới đây:
§ Vai trò ngày càng quan trọng của nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt tại Á Châu, vốn không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế và trên căn bản vẫn còn vững mạnh.
§ Doanh nghiệp tư nhân và xuất cảng đối phó nhanh chóng với khủng hoảng, ghi nhận ít thua lỗ hơn dự tính và lợi tức năm 2009 nhờ vào gói kích cầu kinh tế của chính quyền.
§ Hy vọng sẽ có sự thay đổi đáng kể, nhưng nạn lạm phát và chính sách tiền tệ cùng cạnh tranh sẽ tiếp tục không mấy khả quan.
§ Khung cảnh và chính sách tại Việt Nam không mấy tốt đẹp cho các nhà đầu tư, và người Việt phải gồng mình để chịu đựng nhiều giới hạn hơn cho sự tự do kinh doanh và tự do tôn giáo trong năm 2010, trừ khi chính quyền Việt Nam có thể giúp ổn định tình hình.
TẠM KẾT
Năm 2009 cho thấy nhiều biến đổi về đối ngoại và đối nội nhưng về kinh tế VN đã tạm ổn định và thành công trong việc kêu gọi vốn ODA. Bộ Kế hoạch đưa ra các ước tính tăng trưởng kinh tế từ 6,5% tới 7% và mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 10% so với 2009.
Cái nhìn của WB về VN là một cái nhìn của “chủ cho vay” (lướt qua các yếu kém của VN) trong khi cái nhìn của nghiêm cửu Havard là cái nhìn lâu dài – nhìn về cơ cấu, của một cơ quan phân tích. Sự thật gần nghiên cứu của Harvard cho thấy VN còn nhiều yếu kém và cần thay đổi để có tăng trưởng bền bỉ.
Theo tác giả thì tình hình 2010 không hoàn toàn ‘lạc quan’ như vậy. Một số tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ quốc tế còn giữ kẽ, “ngoại giao.” Nếu phải đánh giá về quản lý kinh tế trong năm Sửu – 2009, thì VN sẽ được điểm B- hay B–.
VN đã tránh được khủng hoảng trong năm 2009 bằng cách đầu tư trên qua gói trợ kích. VN có một số thử thách chính phải vượt qua: lạm phát, nợ và công bằng xã hội.
Lạm phát, thiếu hiệu năng kinh tế, thâm hụt thương mại và ngân sách là các yếu kém không chối. Việc này cho thấy quy trình lựa chọn các dự án đầu tư trong khu vực công (PIP – Public Investment Priority Program) là một quy trình VN cần tăng hiệu năng. Ngoài ra lợi ích của sự có mặt của nhiều viện nghiên cứu (nhu IDS) là rất cần thiết để giúp phát họa và bàn các chính sách – đóng góp đúng lúc cho VN.
Đánh giá theo các yếu tố thành công của các con “cọp á châu” trong các lĩnh vực Giào dục, Cơ sở hạ tầng; Doanh nghiệp và cạnh tranh quốc tế; Hệ thống tài chính; Hiệu năng của Nhà nước; và Công bằng xã hội cho thấy VN còn kém rất.
Vì bong bóng địa ốc và bong bóng chứng khóa – số tiền Kiều Hối và đầu tư nước ngoài – vì nhà nước «bơm » thêm tiền vào các DNNN, cho nên lạm phát tại VN trên hai số. Trong năm 2008 và 2009 giá địa ốc còn cao hơn nhiều nước tân tiến. Giá địa ốc, chứng khoán (bong bóng) và giá xăng trên thế giới đã làm cho lạm phát tăng cao. Việc này làm hại các người tiêu thụ và các người có lương cố định.
Vấn đề bất công bằng xã hội – hố giữa người nghèo và giàu cằng tăng. Lạm phát và lương bổng không theo kịp sẽ gây một tình trạng giữa ngưới giàu tại thành thị, các người công nhân có lương cố định và nông thôn ngày càng thêm sâu.
Ngoài ra còn vấn đề khai thác bauxite, uranium, etc. Sang năm Dần – khi kinh tế toàn cầu sẽ sáng sủa hơn, VN sẽ có cơ hội tiếp tục cải cách – « Hóa rồng hóa cọp » về kinh tế và nâng cơ hội cho mọi người – giúp khu vực tư tăng trưởng và giảm hố sâu nghèo giàu giữa nông thôn và thành thị.
—————
[1]– WB Country Overview 2008-2009
[2]– Trong một vài năm trở lại đây, Việt Nam đã trở thành “con cưng” của WB. Ngân hàng Thế giới và nhóm các nhà tài trợ đồng minh của họ làm ngơ trước mọi diễn biến tiêu cực ở Việt Nam (vì họ cần cho vay) chỉ vì họ cần ít nhất một ví dụ thành công để chứng minh rằng viện trợ phát triển chính thức (ODA) có tác dụng. Indonesia trước đây đã từng là “con cưng” của WB cho đến đêm trước khủng hoảng 1997, và sự rối loạn về chính trị sau đó đã tiêu huỷ triển vọng tăng trưởng của quốc gia này trong suốt một thập kỷ. VN hiện nay đang được chọn để diễn vai trò của Indonesia trước đây. Kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, làm “con cưng” có cái “khoái nhất thời” nhưng cái nguy dài hạn. Sau khi Indonesia thất bại, WB đã không ngần ngại chỉ trích những thất bại trong chính sách của nước này. .
[3]– Havard “Choosing success: Lessons from East Asia and SEAsia countries and future for VN,” Hanoi, 2008
[4]– Gồm việc nới lỏng lãi suất, tiền tệ và thuế.
[5]– Bao gồm FDI thực hiện (4,7 tỷ USD), đầu tư gián tiếp (5-6 tỷ USD), kiều hối (7-8 tỷ USD), ODA giải ngân (2 tỷ USD), chi tiêu của du khách quốc tế (3,3 tỷ USD).
[6]– K. Ohno “Vietnam’s Recent Inflation and Asset Booms: An External Explanation” .
[7]– Phùng Liên Đoàn ngày 11/2009 trong mục Ý kiến bạn đọc – Điện hạt nhân sẽ đắt gấp ba
[8]– Havard “Choosing success: Lessons from East Asia and SEAsia countries and future for VN,” 2008
[9]– Trong năm 2006, 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkorn của Thái-lan đăng được 744 công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế trong khi đó, 3.360 giảng viên của hai trường Đại học Quốc Gia Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình.
[10]– Theo ông thi quản trị chứ không phải thiếu tiền là căn nguyên thất bại của giáo dục đại học và khoa học. ở Mặc dù số sinh viên ra trường đã ít ỏi, khoảng phân nửa sinh viên ra trường không được làm đúng ngành đào tạo. Xem bài “Năm mới, chuyện cũ” trên trang web của Tạp chí Tia Sáng tại địa chỉhttp://www.tiasang.com.vn/print?id=1307.
[11]– Tác giả đã làm việc cải tổ kinh tế tại nhiều nước nhằm vào “quy trình đánh giá các dự án đầu tư” (PIP tại nhiều nước);
[12]– Đây là quan sát của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong bài báo nhan đề: “Thận trọng với việc thành lập các tập đoàn kinh tế.” Xem http://www.saigontimes.com.vn/tbktsg/detail.asp?muc=216&sobao=867&sott=5
[13]– Có thể hỏi tình trạng này với các thiện nguyện viên của Project Vietnam thăm VN 3 lần mỗi năm.
[14]– Một nước có chỉ số Gini từ 0,25 trở xuống được coi là rất công bằng, còn nếu chỉ số này cao hơn 0,50 thì bị coi là rất không công bằng. Chỉ số Gini của Hàn Quốc là 0,32, Đài Loan và Indonesia là 0,34, Malaysia là 0,40, Thái-lan là 0,42, Phi-lip-pin là 0,45, và Trung Quốc là 0,47. Về an sinh XH xin xem: “Martin Evans, Ian Gough, Susan Harkness, Andrew McKay, Đào Thanh Huyền và Đỗ Lê Thu Ngọc, “An sinh xã hội ở Việt Nam lũy tiến đến mức độ nào?” Nguyên bản: “How Progressive is Social Security in Vietnam,” Hanoi, UNDP Policy Dialogue Paper, 2006. “Tiền thuê nhà ngầm ẩn” là khoản tiền đáng lẽ hộ gia đình phải trả nếu họ không có nhà riêng. Vì nhiều hộ gia đình ở nông thôn sở hữu nhà nên khi cộng khoản thuê nhà ngầm ẩn này vào sẽ có tác dụng làm tăng thu nhập của họ.
[2]– Trong một vài năm trở lại đây, Việt Nam đã trở thành “con cưng” của WB. Ngân hàng Thế giới và nhóm các nhà tài trợ đồng minh của họ làm ngơ trước mọi diễn biến tiêu cực ở Việt Nam (vì họ cần cho vay) chỉ vì họ cần ít nhất một ví dụ thành công để chứng minh rằng viện trợ phát triển chính thức (ODA) có tác dụng. Indonesia trước đây đã từng là “con cưng” của WB cho đến đêm trước khủng hoảng 1997, và sự rối loạn về chính trị sau đó đã tiêu huỷ triển vọng tăng trưởng của quốc gia này trong suốt một thập kỷ. VN hiện nay đang được chọn để diễn vai trò của Indonesia trước đây. Kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, làm “con cưng” có cái “khoái nhất thời” nhưng cái nguy dài hạn. Sau khi Indonesia thất bại, WB đã không ngần ngại chỉ trích những thất bại trong chính sách của nước này. .
[3]– Havard “Choosing success: Lessons from East Asia and SEAsia countries and future for VN,” Hanoi, 2008
[4]– Gồm việc nới lỏng lãi suất, tiền tệ và thuế.
[5]– Bao gồm FDI thực hiện (4,7 tỷ USD), đầu tư gián tiếp (5-6 tỷ USD), kiều hối (7-8 tỷ USD), ODA giải ngân (2 tỷ USD), chi tiêu của du khách quốc tế (3,3 tỷ USD).
[6]– K. Ohno “Vietnam’s Recent Inflation and Asset Booms: An External Explanation” .
[7]– Phùng Liên Đoàn ngày 11/2009 trong mục Ý kiến bạn đọc – Điện hạt nhân sẽ đắt gấp ba
[8]– Havard “Choosing success: Lessons from East Asia and SEAsia countries and future for VN,” 2008
[9]– Trong năm 2006, 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkorn của Thái-lan đăng được 744 công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế trong khi đó, 3.360 giảng viên của hai trường Đại học Quốc Gia Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình.
[10]– Theo ông thi quản trị chứ không phải thiếu tiền là căn nguyên thất bại của giáo dục đại học và khoa học. ở Mặc dù số sinh viên ra trường đã ít ỏi, khoảng phân nửa sinh viên ra trường không được làm đúng ngành đào tạo. Xem bài “Năm mới, chuyện cũ” trên trang web của Tạp chí Tia Sáng tại địa chỉhttp://www.tiasang.com.vn/print?id=1307.
[11]– Tác giả đã làm việc cải tổ kinh tế tại nhiều nước nhằm vào “quy trình đánh giá các dự án đầu tư” (PIP tại nhiều nước);
[12]– Đây là quan sát của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong bài báo nhan đề: “Thận trọng với việc thành lập các tập đoàn kinh tế.” Xem http://www.saigontimes.com.vn/tbktsg/detail.asp?muc=216&sobao=867&sott=5
[13]– Có thể hỏi tình trạng này với các thiện nguyện viên của Project Vietnam thăm VN 3 lần mỗi năm.
[14]– Một nước có chỉ số Gini từ 0,25 trở xuống được coi là rất công bằng, còn nếu chỉ số này cao hơn 0,50 thì bị coi là rất không công bằng. Chỉ số Gini của Hàn Quốc là 0,32, Đài Loan và Indonesia là 0,34, Malaysia là 0,40, Thái-lan là 0,42, Phi-lip-pin là 0,45, và Trung Quốc là 0,47. Về an sinh XH xin xem: “Martin Evans, Ian Gough, Susan Harkness, Andrew McKay, Đào Thanh Huyền và Đỗ Lê Thu Ngọc, “An sinh xã hội ở Việt Nam lũy tiến đến mức độ nào?” Nguyên bản: “How Progressive is Social Security in Vietnam,” Hanoi, UNDP Policy Dialogue Paper, 2006. “Tiền thuê nhà ngầm ẩn” là khoản tiền đáng lẽ hộ gia đình phải trả nếu họ không có nhà riêng. Vì nhiều hộ gia đình ở nông thôn sở hữu nhà nên khi cộng khoản thuê nhà ngầm ẩn này vào sẽ có tác dụng làm tăng thu nhập của họ.
TS Đinh Xuân Quân
Bài viết cho Voice of Vietnamese Americans
Đầu năm 2010 – Cuối năm Kỷ Sửu, vào năm Canh Dần
Bài viết cho Voice of Vietnamese Americans
Đầu năm 2010 – Cuối năm Kỷ Sửu, vào năm Canh Dần
No comments:
Post a Comment