Thursday, June 30, 2011

30/06 Vietnam jails 3 for trafficking women to China

Jun 30, 2011



HANOI - THREE women in southern Vietnam have been sentenced to prison for trafficking women to China.
Presiding Judge Nguyen Van Tong says 29-year-old Nguyen Thi Thuy was convicted on Wednesday of selling six women and sentenced to 10 years behind bars at a one-day trial in Tay Ninh province.
The judge said on Thursday that Thuy's two accomplices were sentenced to six years and five years in prison, respectively.
Thuy, who herself was sold to marry a Chinese man in 2009, was hired by a ring headed by a Vietnamese woman living in China.
Tong says the ring sold Vietnamese women to Chinese men for 32,000 Chinese yuan (S$6,107) each, and that Thuy was paid 1,000 yuan ($155) for each woman she trafficked.
Thuy was caught in January this year with two women. -- AP

30/06 Documents assert VN’s sovereignty over Truong Sa


30/06/2011 | 11:33:30TOP STORIES
The National Archive Centre No. 4 in the central highlands province of Lam Dong has found documents that shed light on Vietnam ’s sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa archipelagos.

The documents, engraved in Han script on 14 wood blocks, have been identified to be under the Nguyen Dynasty (1802-1945), serving as evidence to assert Vietnam ’s sovereignty over Hoang Sa and Truong Sa archipelagos.

According to the Centre’s Director Pham Thi Hue, the contents of the documents have been translated and handed over to the State Record Management and Archive Department of Vietnam.

The documents valuably contribute to illuminating and confirming the country’s territorial waters and sea and island sovereignty./.

30/06 An Giang phát hiện và quy tập 142 hài cốt liệt sỹ

30/06/2011 | 20:34:00


Các hài cốt liệt sỹ được tìm thấy. (Ảnh minh họa. Hồ Cầu/TTXVN)
Được sự hỗ trợ nhiệt tình của lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia, sau hơn bốn tháng triển khai, ngày 30/6, Đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trên đất bạn Campuchia-K93, thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang đã quy tập 142hài cốt liệt sỹ.

30/06 Vietnam's gems, jewelry exports reach over 1 bln USD in first half of 2011

Source: Xinhua
Time: 2011-Jun-30 10:26

HANOI, June 29 (Xinhua) -- Vietnam's export turnover of gemstones, jewelries and related products reached 630 million U.S. dollars in June, lifting the total six-month figure to 1.027 billion U.S. dollars, the Vietnam's General Statistics Office (GSO) reported on Wednesday.
According to GSO, the country exported 12 tons of gold in June, more than the first five months' total.

30/06 Initial hearing against 4 leaders of Democratic Kampuchea concluded


English.news.cn   2011-06-30 20:49:23
PHNOM PENH, June 30 (Xinhua) -- Four-day initial hearing against four leaders of the Democratic Kampuchea (DK) (or commonly known as Khmer Rouge) that conducted by the UN supported court, known as Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia (ECCC) was concluded on Thursday.

30/06 Phim lịch sử Việt Nam: Muộn còn hơn không!

Cập nhật lúc 30/06/2011 06:12:00 AM (GMT+7)
 - Thiếu nội lực và quá nhiều hạn chế, dòng phim lịch sử Việt Nam tuy mới manh nha nhưng đã phải đối mặt với không ít khó khăn để khẳng định mình.

Dòng phim cổ trang, lịch sử Việt mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu.

Mô hình nào cho “thành phố Thừa Thiên - Huế”?


Thứ Năm, 30/06/2011, 07:51 (GMT+7)
TT - Nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia tại buổi tọa đàm tìm giải pháp thực hiện kết luận 48 của Bộ Chính trị về việc đưa cả tỉnh Thừa Thiên - Huế trở thành đô thị trực thuộc trung ương, vừa diễn ra tại TP Huế hôm 27-6.
Trung tâm TP Huế hiện còn giữ được sự hài hòa vốn có, từng được mệnh danh là “kiệt tác thơ kiến trúc đô thị” - Ảnh: THÁI LỘC

29/06 TQ kêu gọi Việt Nam thực hiện 'đồng thuận'



Biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 05/06
Dư luận trong nước tỏ ra lo lắng trước việc người phát ngôn Trung Quốc kêu gọi Việt Nam thực hiện 'đồng thuận đã đạt được giữa hai bên' về Biển Đông.
Cộng đồng mạng Việt Nam xôn xao về bản tin của Tân Hoa Xã phát đi từ Bắc Kinh hôm thứ Ba 28/06, trong đó hãng này dẫn lời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói Bắc Kinh hy vọng Hà Nội sẽ thực hiện những gì hai bên đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn hồi tuần trước.
Ông Hồ Xuân Sơn, trong tư cách đặc phái viên của lãnh đạo cấp cao Việt Nam, đã có cuộc gặp với Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc về tình hình Biển Đông.
Ông Đới là nhân vật cao cấp nhất về phía Đảng của Trung Quốc chuyên phụ trách ngoại giao.
Trước đó ông Sơn cũng có hội đàm về chủ đề này với người đồng nhiệm Trung Quốc Trương Chí Quân.
Báo chí hai bên sau đó khi tường thuật về chuyến đi của ông thứ trưởng, không nói có bất cứ văn bản thỏa thuận nào đã được thống nhất.
Bản tin của Tân Hoa Xã hôm 28/06 trích lời ông Hồng Lỗi nói tại cuộc họp báo thường kỳ: "Chúng tôi đã thảo luận một cách kỹ lưỡng với phía Việt Nam về chủ đề Biển Đông trong chuyến thăm của ông đặc phái viên và hai bên thống nhất giải quyết các tranh chấp bất đồng thông qua hiệp thương hữu nghị và tránh có các hành động dẫn tới leo thang hay phức tạp hóa tình hình".
Ông Hồng Lỗi nói: "Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam sẽ thực hiện đồng thuận chung và nỗ lực bảo vệ hòa bình và ổn định tại Nam Hải (Biển Đông)".
TBT Nông Đức Mạnh tiếp Chủ tịch Đảng Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc thăm Việt Nam hồi 2006
TBT Nông Đức Mạnh tiếp Chủ tịch Đảng Hồ Cẩm Đào thăm Việt Nam hồi 2006: bên cạnh quan hệ quốc gia còn có liên hệ giữa hai Đảng
Thực ra phát biểu của người phát ngôn Trung Quốc không có gì khác so với các thông tin mà truyền thông hai nước đã đăng tải sau chuyến đi của ông Hồ Xuân Sơn, tuy nhiên cụm từ "đồng thuận" (tiếng Anh là consensus) hiếm gặp, cùng các tường thuật thiếu chi tiết trước đó, đã khiến không ít người ở Việt Nam lo lắng về khả năng có thể hai bên, nhất là các lãnh đạo Đảng, đã đạt một "thỏa thuận ngầm" nào đó.

Thiếu minh bạch?

Một chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề khu vực, Tiến sỹ Jonathan London từ Đại học Hong Kong, bình luận với BBC: "Tôi có thể hiểu được tại sao lại có quan ngại này".
"Quan hệ lịch sử Việt Nam - Trung Quốc trong 50 năm vừa qua hết sức nhạy cảm, và lãnh đạo Việt Nam trong quá khứ đã có hành vi có thể gọi là sai lầm trong xử lý vấn đề Biển Đông, bởi vậy mà người dân có thể lo ngại."
Theo Tiến sỹ Jonathan London, "điểm yếu của cả hai chế độ [ở Việt Nam và Trung Quốc] là thiếu minh bạch", nên chưa thể khẳng định trong các cuộc gặp tuần qua hai bên đã thống nhất những gì.
"Tôi cho là cần chờ đợi một vài tháng tới, để xem diễn biến sẽ như thế nào, cũng như hoạt động của các nước khác trong đó có Mỹ. Rồi thì chúng ta mới có khả năng đánh giá."
Quan hệ lịch sử Việt Nam - Trung Quốc trong 50 năm vừa qua hết sức nhạy cảm, và lãnh đạo Việt Nam trong quá khứ đã có hành vi có thể gọi là sai lầm trong xử lý vấn đề Biển Đông, bởi vậy mà người dân có thể lo ngại.
TS Jonathan London, ĐH Hong Kong
Báo Việt Nam hồi cuối tuần đồng loạt đăng bản tin mà Thông Tấn xã Việt Nam đưa ra, gọi là 'Thông tin báo chí chung Việt Nam - Trung Quốc' về chuyến thăm của ông Hồ Xuân Sơn.
Quan điểm chung là giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng và một cách hòa bình.
TTXVN nói hai bên thống nhất đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm ký kết “Thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc".
Bản tin này cũng nhắc lại "16 Chữ Vàng" trong quan hệ song phương đã được các lãnh đạo cao cấp nhất đồng ý.
Theo đánh giá của Tiến sỹ Jonathan London, nếu chỉ dựa vào các thông tin trên, khó có thể nói đã có đột phá gì trong vấn đề Biển Đông.
"Tất nhiên cuộc gặp là chỉ dấu tích cực, cho thấy hai bên đều lo ngại về khả năng xấu đi của tranh chấp và muốn ngăn chặn nó leo thang, thế nhưng chưa thấy cách giải quyết lâu dài."
Theo ông tiến sỹ, Trung Quốc "chưa có gì thay đổi về việc làm" và các hành vi của Trung Quốc vẫn tỏ ra "chưa tôn trọng chủ quyền của Việt Nam".
Một số trang mạng của giới vận động dân chủ tại Việt Nam cũng đặt câu hỏi vì sao ông Hồ Xuân Sơn "phải sang Trung Quốc" sau khi xảy ra những vụ mà chính báo chí nhà nước ở Việt Nam cho là phía Trung Quốc gây ra trên Biển Đông.

Cùng khai thác

Trong cuộc họp báo hôm thứ Ba, Người phát ngôn Hồng Lỗi tiếp tục khẳng định "Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) và các vùng biển phụ cận".
Người phát ngôn Hồng Lỗi
Ông Hồng Lỗi nhắc lại quan điểm của Trung Quốc
Bản tin của Tân Hoa Xã ngày 28/06 nhắc lại rằng các tư liệu lịch sử của Trung Quốc cho thấy rằng năm 1958 Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với các đảo ở Nam Hải và Thủ tướng Việt Nam khi đó là ông Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc.
Bản công hàm 1958 này hầu như không được Chính phủ Việt Nam nhắc tới.
Theo Tân Hoa Xã, cho tới tận những năm 1970 không có quốc gia nào trong khu vực tranh chấp lãnh thổ gì với Trung Quốc. Sau đó, Philippines và Việt Nam mới bắt đầu đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.
"Sau nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi, lãnh đạo TQ Đặng Tiểu Bình đã đưa ra đề xuất gác tranh chấp để cùng khai thác."
Hãng tin của nhà nước Trung Quốc nói tháng 3/2005, ba công ty dầu khí của Việt Nam, Trung Quốc và Philippines đã ký thỏa thuận cùng thăm dò dầu khí ở vùng Biển Đông, cho đó là hình mẫu của việc thực hiện đề xuất trên của ông Đặng Tiểu Bình.
Tuy nhiên, Tân Hoa Xã đã không nhắc tới thực tế là việc thăm dò chung ba bên này đã không mang lại được kết quả gì thực sự, một phần vì gặp phản đối của dư luận tại các nước.
Một phần khác, là do đề xuất của ông Đặng còn đi kèm tuyên bố rằng "chủ quyền của các lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc", khiến các nước khác khó lòng chấp nhận.

Wednesday, June 29, 2011

29/06 CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG MƯU MÔ GIAN MANH CÓ CHỦ ÐÍCH!


[29.06.2011 06:13 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) Bản tin của Tân Hoa Xã mang tựa đề “Trung Quốc thúc giục sự đồng thuận với Việt Nam trên vấn đề Biển Hoa Nam” mới được đăng trên mạng basam.info vào đêm 28-6 vừa qua, lập tức đã nhận được nhiều ý kiến đầy âu lo của các “công dân mạng” vì nội dung bất thường và đầy tính gian manh của nó.

Luôn nhớ tới các anh... - Ảnh: Thùy Giang
 

Trích lời Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi, Tân Hoa Xã cho hay, trong thời gian Thứ trưởng Ngoại giao, phái viên đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Hồ Xuân Sơn “đã có những cuộc thảo luận tới cùng trên vấn đề Biển Hoa Nam trong thời gian diễn ra chuyến viếng thăm của phái viên đặc biệt, và hai bên đã thỏa thuận giải quyết những tranh chấp thông qua các cuộc hội đàm hữu nghị và tránh gây nên những động thái có thể làm trầm trọng thêm hay gây nên phức tạp cho vấn đề”.

Trong các cuộc đàm phán tại Bắc Kinh vào tuần trước, đôi bên đã đạt được một thỏa thuận song phương trên vấn đề Biển Hoa Nam [Biển Đông], theo đó, “cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam và nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước” (lời ông Hồng Lỗi).

Trên tinh thần đó, tại một họp báo ngắn vào ngày thứ Ba 28-6, phía Trung Quốc đã bày tỏ “hy vọng phía Việt Nam cũng như chúng tôi sẽ thực hiện đầy đủ sự nhất trí và có được những nỗ lực gìn giữ hòa bình và ổn định trên Biển Hoa Nam”. Kèm theo đó, bản tin cũng nhắc lại quan điểm: “Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố về chủ quyền không thể tranh cãi của mình tại các hòn đảo trên Biển Hoa Nam và những vùng biển xung quanh các hòn đảo này. 

Những hồ sơ lịch sử của Trung Quốc đã cho thấy rằng năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã khẳng định các hòn đảo trên Biển Hoa Nam như là bộ phận thuộc lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc, và kế đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự tán đồng trong bức thư ngoại giao ngắn của mình gửi tới Thủ tướng khi đó là ông Chu Ân Lai.   

Chưa từng có sự bất đồng nào từ bất cứ quốc gia nào đối với chủ quyền của Trung Quốc trên khu vực này cho tới những năm 1970, khi các nước bao gồm Việt Nam và Philippines tuyên bố chủ quyền từng phần ở đây. Sau những cuộc đàm phán và tranh chấp kéo dài, ông Đặng Tiểu Bình đã khởi xướng đề xuất của mình về vấn đề đặt qua một bên những tranh chấp và đề nghị cùng nhau khai thác trong khu vực này”.

* 

Thoạt nhìn, có thể nghĩ, bản tin của Tân Hoa Xã cũng những lời lẽ của ông Hồng Lỗi có vẻ bất thường vì nó mang tính quá... mềm mỏng, hòa hoãn, nhắc nhiều đến “thảo luận”, “thỏa thuận”, “giải quyết những tranh chấp thông qua các cuộc hội đàm hữu nghị”. Khác hẳn với những thực tế trong thời gian qua, khi Trung Quốc thường xuyên gây hấn với Việt Nam tại Biển Ðông, truyền thông Trung Quốc thường xuyên đăng tải những ý kiến hung hãn kiểu sẽ tát vỡ mặt Việt Namdạy cho Việt Nam một bài học lớn hơn.

Tuy nhiên, chỉ cần đọc lại đến lần thứ hai - hoặc không cần đến thế - là đã có thể dễ dàng nhận ra những mưu mô tuy gian manh nhưng không quá “kín đáo” của phía Trung Quốc, thể hiện qua phát ngôn của ông Hồng Lỗi và lời lẽ của bản tin Tân Hoa Xã!

Bắc Kinh hy vọng đôi bên “thực hiện đầy đủ sự nhất trí và có được những nỗ lực gìn giữ hòa bình và ổn định trên Biển Hoa Nam”, nhưng lại trên quan điểm “chủ quyền không thể tranh cãi của mình tại các hòn đảo trên Biển Hoa Nam và những vùng biển xung quanh các hòn đảo này”, và còn viện dẫn phát biểu năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Ðồng (mà giới luật gia đã cho rằng thực ra không hề có giá trị pháp lý với việc “xác lập chủ quyền” của Trung Nam Hải ở những quần đảo vốn đã thuộc chủ quyền của một nước khác), vậy phải hiểu mong muốn của phía Trung Quốc là như thế nào?

Câu trả lời rất rõ ràng. Là muốn dần dà thôn tính trên bản đồ và trong thực tế những vùng đất đã có chủ. Là muốn “biến Biển Ðông thành ao nhà”. Là muốn biến vấn đề chủ quyền thành vấn đề kinh tế theo phương châm từ thời Ðặng Tiểu Bình - “gác tranh chấp, cùng khai thác”, nhưng lờ đi vế đầu của lời họ Ðặng, rằng Trung Quốc vẫn phải nắm chủ quyền, như phân tích của TS Vũ Cao Phan, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc, trong bài trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Phượng Hoàng (Trung Quốc).

Ðể thực hiện ý đồ đó, đương nhiên là Trung Quốc muốn Việt Nam loại “yếu tố quốc tế” khỏi những tranh chấp tại Biển Ðông. Nhưng thử hỏi, trong vấn đề chủ quyền ở Biển Ðông, có những gì mà chỉ “thuần” liên quan tới Việt Nam và Trung Quốc? Hoàng Sa của Việt Nam thì Trung Quốc đã chiếm giữ, Trường Sa đang là vấn đề tranh chấp đa phương, còn “đường lưỡi bò” tất yếu là vấn đề của khu vực. Biến vấn đề đa phương thành song phương, buộc Việt Nam sa vào thế cô khi phải loại trừ “những thế lực bên ngoài can dự vào” là âm mưu quá dễ nhận ra của Bắc Kinh!

Nhưng như thế chưa đủ, Bắc Kinh lại còn đòi phải “tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước”. Ở đây, phải nói ngay rằng Trung Quốc đã đánh tráo khái niệm: người dân Việt Nam không bao giờ muốn gây chiến và luôn muốn “hữu nghị và tin cậy” với người dân Trung Quốc. Nhưng bài học của gần 4 thập niên qua cho thấy họ nhất thiết phải cảnh giác và tỉnh táo trước những mưu đồ bánh trướng và bá quyền của chính phủ Trung Quốc.

Phải hiểu những bài viết, nhận định mang tính cảnh tỉnh của các nhân sĩ, trí thức và người dân Việt Nam, những cuộc biểu tình yêu nước, phản đối chính sách gây hấn của chính quyền Trung Quốc thời gian gần đây như những nỗ lực để gây dựng một nền hòa bình thực sự giữa hai nước, để người dân hai nước được sống trong tình cảm “hữu nghị và tin cậy”. Nếu phía Trung Quốc cho rằng có thể hợp thức hóa việc dẹp bỏ những ý kiến, những biểu hiện ái quốc ấy của người dân Việt bằng những “thỏa thuận song phương” nào đó, thì chắc chắn là họ đã nhầm!

Người dân Việt Nam khao khát hòa bình, muốn được phát triển kinh tế, muốn “hợp tác cùng khai thác” với Trung Quốc, nhưng phải trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của mỗi bên, vì chủ quyền của đất nước là điều thiêng liêng và tối thượng. Việt Nam có thể khoan dung mà quên đi những xung đột thương đau do phía Trung Quốc gây ra trong vòng 40 năm qua (xâm chiếm lãnh thổ, chiến tranh biên giới, tàn sát dân lành, bạo hành ngư dân, v.v...), nhưng quyết không chấp nhận sự áp đặt vô lối mà Bắc Kinh đã ỉ mạnh mà đặt ra.

Cuối cùng, để “rộng đường dư luận” và đập tan những mưu đồ xảo trá của phía Trung Quốc, người dân rất muốn được biết cụ thể nội dung những thỏa thuận song phương đã được đôi bên ký kết trong chuyến công du vừa qua của Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn. Một khi có được sự đồng lòng và ủng hộ của người dân, mọi khó khăn, trở ngại  đều có thể vượt qua, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chiêm nghiệm, bởi lẽ:

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (*).

(*) Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2-1951). 
Trần Lê

29/06 Mexico sees VN as example of poverty reduction


29/06/2011 | 18:48:01
Vietnam is an example of poverty reduction, Mexican congressmen said at a welcome ceremony on June 28 for Vietnam ’s new ambassador to Mexico , Le Thanh Tung.

The congressmen from the Mexico-Vietnam Friendship Parliamentary Group underlined the necessity to disseminate experiences and lessons learnt from Vietnam ’s fight against poverty among the Mexican and Latin American people.

Pedro Vanzquez, President of the Mexico-Vietnam Friendship Parliamentary Group, who is Politburo member of the Labour Party of Mexico, hailed Vietnam ’s fighting spirit for national independence and freedom as exemplary one in the 20 th century.

Ambassador Tung took the occasion to thank the Mexican government and people for their support for Vietnam ’s past struggle for national liberation and current national construction and defence.

He asserted determination to deepen cooperation between the two law-making bodies and the two countries in various fields.

The diplomat briefed the Mexican congressmen of Vietnam ’s renewal achievements as well as its efforts to overcome war aftermaths, especially to assist Agent Orange victims./.

29/06 Học giả Việt Nam nói về Biển Đông trên truyền hình Trung Quốc

Thứ tư, 29/6/2011, 07:13 GMT+7


Trả lời truyền hình Trung Quốc, tiến sĩ Vũ Cao Phan bình luận, phát biểu của lãnh đạo Việt Nam chỉ là những phản ứng tự vệ, không phải là lời lẽ đe dọa chiến tranh. Ông tin, cuộc tranh chấp sẽ được giải quyết một cách hòa bình.
Đặc phái viên Việt Nam tới Trung Quốc
Tướng Trung Quốc dọa Việt Nam

Dưới đây là nội dung trả lời của ông với Đài truyền hình Phượng Hoàng của Hong Kong, Trung Quốc, tuần trước do tiến sĩ gửi cho VnExpress.
- Sự thể hiện cứng rắn gần đây của Việt Nam ở Nam Hải (Biển Đông) biểu thị thái độ gì?
- Nếu chỉ nhìn vào riêng biệt các sự kiện xảy ra gần đây để đánh giá phản ứng và thái độ của Việt Nam thì sẽ không chính xác. Phải nhìn rộng ra một chút, nhìn xa ra một chút. Vài năm gần đây ngày càng có nhiều tàu đánh cá của phía Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ, tịch thu hết lưới cụ rồi đòi tiền chuộc. Như năm ngoái chẳng hạn, hàng chục tàu thuyền, hàng trăm ngư dân khu vực miền Trung bị bắt giữ. Đây vốn là vùng đánh cá truyền thống lâu đời và yên lành của ngư dân Việt Nam, bây giờ bỗng nhiên liên tục xảy ra những sự việc như vậy.
Có lần truyền hình Việt Nam chiếu cảnh hàng trăm thân nhân của những người đánh cá đứng, ngồi lam lũ trên bờ biển khóc lóc ngóng lo chồng con trở về đã gây ra rất nhiều bức xúc trong dư luận xã hội (điều này chắc các bạn Trung Quốc không biết).
Tàu thăm dò Vikinh II do Việt Nam điều hành, bị tàu Trung Quốc quấy rối trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 9/6. Ảnh: PetroTimes.
Tàu thăm dò Viking II do Việt Nam điều hành, bị tàu Trung Quốc quấy rối trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 9/6. Ảnh: PetroTimes.
Nhà đương cục Việt Nam đã nhiều lần tiếp xúc với phía Trung Quốc về vấn đề đó nhưng hầu như không được đáp ứng. Lần này Trung Quốc hành động mạnh hơn thì phản ứng của Việt Nam cũng buộc phải mạnh hơn, không có gì quá bất thường. Trong tinh thần ấy, tôi nghĩ, phát biểu của lãnh đạo Việt Nam cũng chỉ là những phản ứng tự vệ, đâu có phải là lời lẽ đe dọa chiến tranh như các bạn vừa suy luận. Nếu người dân Trung Quốc thấy bất thường thì có lẽ là vì các bạn không biết đến các sự kiện trước đó như tôi vừa nói. Còn nếu gọi đây là một sự leo thang thì phải thấy là Việt Nam leo theo các bạn Trung Quốc. Đúng thế đấy, phía Trung Quốc luôn luôn leo lên trước.
- Theo ông, tranh chấp trên Nam Hải (Biển Đông) sẽ được giải quyết bằng vũ lực hay đàm phán?
- Ở Việt Nam loại câu hỏi như thế này hầu như không được đặt ra. Tôi nói hầu như nghĩa là không phải không có. Mặc dù Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh suốt hơn nửa thế kỷ qua nhưng không nhiều người nghĩ đến khả năng có một cuộc chiến tranh Trung - Việt vào lúc này vì những hòn đảo ở Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải). Về phía cá nhân, tôi tin cuộc tranh chấp sẽ được giải quyết một cách hòa bình.
Thứ nhất là vì Chính phủ hai nước luôn luôn cam kết sẽ giải quyết những tranh chấp này không phải bằng vũ lực mà thông qua con đường ngoại giao, đàm phán thương lượng.
Thứ hai, cả hai nước đều đang ra sức phát triển kinh tế sau nhiều năm bị tàn phá bởi Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc và chiến tranh ở Việt Nam; và công cuộc xây dựng phát triển kinh tế này đang đạt được những kết quả khả quan, chắc là không bên nào muốn để chiến tranh một lần nữa kéo lùi sự phát triển của đất nước mình.
Thứ ba, bối cảnh của một thế giới hiện đại - tôi muốn nói đến một dư luận quốc tế đã trưởng thành - sẽ mạnh mẽ góp sức ngăn ngừa một khả năng như vậy.
Thứ tư, và điều này cũng rất quan trọng, là nếu chính phủ hai nước có nóng đầu một chút thì lý trí và tình cảm của nhân dân cả hai bên sẽ giúp cho họ tỉnh táo hơn, tôi tin như vậy. Tôi xin hỏi lại anh, chắc anh cũng không muốn có một cuộc chiến tranh chứ?
Tuy nhiên, vẫn có thể xảy ra những va chạm, xung đột nhỏ.
- Bản chất của sự tranh chấp Trung - Việt, theo ông, là vấn đề kinh tế hay chủ quyền? Việt Nam nhìn nhận nguyên tắc "gác tranh chấp, cùng khai thác” như thế nào?
- Đây là một câu hỏi thú vị. Các sự kiện ở Biển Đông cho thấy có cả màu sắc tranh chấp về kinh tế lẫn tranh chấp chủ quyền. Quan sát khách quan thì thấy Trung Quốc có vẻ nghiêng về lý do kinh tế, còn Việt Nam nghiêng về lý do chủ quyền nhiều hơn. Cách nhìn vấn đề như vậy sẽ giải thích được tại sao Việt Nam không mặn mà lắm với việc “gác tranh chấp, cùng khai thác”.
Ta thử phân tích xem tại sao nhé. Và đây là ý kiến của cá nhân tôi thôi. Lý do thứ nhất là tài nguyên thì có hạn, một khi khai thác hết rồi điều gì sẽ xảy ra? Liên quan đến nó là lý do thứ hai: “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà các bạn vừa nêu mới chỉ là một nửa lời căn dặn của ông Đặng Tiểu Bình mà nguyên văn là: “Chủ quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác”, có đúng không? Như thế có nghĩa là khi đã cạn kiệt tài nguyên khai thác rồi, Việt Nam chẳng còn gì và Trung Quốc thì vẫn còn cái cơ bản là “chủ quyền”! Mà những hòn đảo và vùng biển ấy đâu chỉ có giá trị về tài nguyên?
Tôi ủng hộ việc hai nước cùng hợp tác khai thác tài nguyên ở Biển Đông nhưng ít nhất trước đó cũng phải làm sáng tỏ đến một mức độ nhất định nào đó (nếu chưa hoàn toàn) vấn đề chủ quyền.
Về câu hỏi của các bạn là bản chất của cuộc tranh chấp Việt - Trung là gì, kinh tế hay chủ quyền thì tôi đã phát biểu như vậy. Nhưng nếu cho tôi được phát triển theo ý mình thì tôi nói rằng, bản chất của cuộc tranh chấp này là chính trị. Quan hệ Việt - Trung không yên tĩnh đã từ mấy chục năm nay rồi và nó là một dòng gần như liên tục, trước khi xuất hiện vấn đề biển đảo những năm gần đây, có phải vậy không? Để giải quyết nó, các nhà lãnh đạo cần phải ngồi lại với nhau, ở cấp cao nhất ấy, một cách bình đẳng, bình tĩnh, thẳng thắn và chân thành. Vấn đề hóc búa đấy. Đương đầu với sự thật không dễ dàng, nhưng sẽ dễ dàng nếu xuất phát từ thiện chí mong muốn một sự bền vững thực chất cho tình hữu nghị Việt - Trung.
- Theo ông, tương lai phát triển của quan hệ Trung - Việt sẽ như thế nào? Làm cách nào để có thể duy trì quan hệ hữu hảo giữa hai nước?
- Tôi là một người có nhiều năm công tác ở Hội Hữu nghị Việt - Trung, có nhiều mối quan hệ gắn bó với Trung Quốc và nói một cách rất chân thành là tôi yêu Trung Quốc, khâm phục Trung Quốc và thậm chí có thể gọi là “thân Trung Quốc” cũng được. Vì thế, điều mong muốn thường trực của tôi là làm sao xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp, thật sự tốt đẹp giữa nhân dân hai nước. Chắc các bạn cũng muốn vậy. Nhưng có không ít việc phải làm. Có việc phải bắt đầu lại. Trước hết, như tôi đã nói là phải ngồi lại với nhau. Có vị bảo với tôi là ngồi mãi rồi còn gì. Không, ngồi như vậy chưa được, ngồi như vậy không được. Ngồi thế không phải là ngồi thẳng.
Về phần mình với mong muốn như vậy, tôi xin được gửi gắm đôi điều giống như là những lời tâm sự đến các bạn:
Thứ nhất là, vấn đề đàm phán song phương giữa hai nước. Tôi nghĩ đàm phán song phương cũng tốt, cũng cần thiết. Những nơi có tranh chấp đa phương như quần đảo Trường Sa (Nam Sa) thì cần phải đàm phán nhiều bên còn như quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) là vấn đề của riêng hai nước Việt Nam và Trung Quốc lại khác.
Nhưng Chính phủ các bạn lại tuyên bố Hoàng Sa dứt khoát là của Trung Quốc, không phải là vấn đề có thể đưa ra đàm phán. Vậy thì còn cái gì nữa để mà “song phương” ở đây? Chính tuyên bố ấy của Trung Quốc đã đóng sập cánh cửa “con đường song phương”. Tình trạng tranh chấp Hoàng Sa rất giống với tình trạng tranh chấp của đảo Điếu Ngư, giữa Trung Quốc và Nhật Bản mà ở đấy, địa vị của Trung Quốc hoàn toàn giống như địa vị của Việt Nam ở Hoàng Sa lúc này. Chẳng lẽ Trung Quốc lại có một tiêu chuẩn kép cho những cuộc tranh chấp giống nhau về bản chất sao?
Thứ hai là, chúng ta thường nói đến sự tương đồng văn hóa giữa hai nước như là một lợi thế cho việc chung sống hữu nghị bên nhau giữa hai dân tộc. Điều đó đúng một phần, nhưng mặt khác, văn hóa Việt Nam, nhất là văn hóa ứng xử có sự khác biệt lớn với Trung Quốc. Nếu văn hóa ứng xử của người Trung Quốc là mạnh mẽ, dứt khoát, quyết đoán (và do đó thường áp đặt?), nặng về lý trí, thì văn hóa ứng xử của người Việt Nam là nhẹ nhàng, khoan dung, nặng về tình, ơn thì nhớ lâu, oán thì không giữ. Hình như các bạn Trung Quốc chưa hiểu được điều này ở người Việt Nam. Cần phải hiểu được như vậy thì quan hệ giữa hai bên mới dễ dàng.
Tôi có thể lấy một ví dụ. Những sự kiện ở Nam Kinh, ở Lư Cầu Kiều xảy ra đã hơn bảy chục năm rồi. Nhưng mỗi khi có vấn đề với Nhật Bản, người Trung Quốc lại xuống đường biểu tình, đầy căm thù nhắc lại những sự kiện ấy. Người Việt Nam thì không như vậy. Phát xít Nhật đã góp phần gây ra nạn đói giết chết hàng triệu người Việt Nam năm 1945, và trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1965 – 1975, người Mỹ, người Hàn Quốc đã gây rất nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng sau chiến tranh, chính những người lính các nước này khi trở lại Việt Nam đã rất ngạc nhiên bắt gặp những nụ cười niềm nở thân thiện của người dân. Có lẽ nhờ thái độ, cách ứng xử đó của người Việt Nam chăng mà Mỹ, Nhật, Hàn cuối cùng đã trở thành những đối tác kinh tế và thương mại lớn, và là những nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam sau chiến tranh?
Nói như thế vì tôi thấy rằng, cách ứng xử nặng nề của phía Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang đẩy những người Việt Nam vốn rất yêu quý Trung Quốc ra xa các bạn, chứ không phải là Việt Nam cố đi tìm liên minh để chống Trung Quốc.
Lấy thêm một ví dụ nữa nhé! Bây giờ chúng ta đã có thể hiểu bản chất sự kiện (cũng có thể gọi là cuộc chiến tranh) tháng 2/1979 rồi. Người Việt Nam đã muốn quên đi, và khi tiếp xúc với các bạn Trung Quốc vẫn luôn giữ một sự niềm nở chân tình. Trái lại người Trung Quốc rất hay nói đến sự kiện đó. Các bạn biết không, năm 2009, tôi chẳng để ý đó là năm gì, giở báo, mạng của các bạn mới biết là đã 30 năm kể từ 1979. Không phải chỉ vào tháng 2 đâu mà suốt cả năm 2009 người ta nói về sự kiện này. Hàng mấy trăm bài viết, nhiều bài trên mạng mà nhìn vào chỉ muốn khóc. Lời lẽ thật tàn tệ. Thôi, cho chuyện này qua đi …
Thứ ba là, quan hệ giữa hai nước chúng ta thậm chí phải trở nên đặc biệt vì chúng ta có sự tương đồng văn hóa, lịch sử, là láng giềng không thể cắt rời, từng hoạn nạn có nhau (bản thân tôi là một người lính trong chiến tranh Việt Nam, tôi không thể nào quên sự giúp đỡ chí tình của nhân dân Trung Quốc về cả vũ khí, lương thực mà mình trực tiếp được sử dụng). Hai nước chúng ta lại đang cùng cải cách mở cửa, phát triển kinh tế. Chừng ấy lý do là quá đủ để quan hệ này trở nên hiếm có, trở nên đặc biệt. Tôi nói như vậy là muốn phát biểu thêm rằng, hai nước còn một lý do tương đồng nữa là cùng thể chế chính trị, cùng ý thức hệ, điều hay được người ta nhắc đến. Nhưng theo ý kiến cá nhân tôi - của riêng tôi thôi nhé - thì không cần nhấn mạnh điểm tương đồng này. Nó tồn tại như một điều kiện, một lý do thế thôi, không cần nhấn mạnh như cách hai nước vẫn làm. Giữa các nước có cùng ý thức hệ kiểu này vẫn xảy ra xung đột, chiến tranh vì quyền lợi quốc gia như chúng ta đã biết đấy thôi. Thực tế là quyền lợi quốc gia cao hơn ý thức hệ. Chúng ta nên thẳng thắn nhìn nhận vậy để khỏi dối lòng nhau. Hơn nữa, giả dụ một ngày nào đó một trong hai nước chúng ta có một thể chế chính trị khác thì sao, chúng ta lúc ấy còn cần duy trì quan hệ láng giềng tốt nữa không? Vẫn cần chứ, rất cần. Vậy thì …
Tôi rất sẵn lòng cùng các bạn làm tất cả những gì để hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa đã hiểu biết càng hiểu biết nhau hơn nữa, đã gần gũi càng gần gũi nhau hơn nữa. Cám ơn Đài Truyền hình Phượng Hoàng đã dành cho tôi cuộc phỏng vấn này.
Theo dòng sự kiện:
Căng thẳng gia tăng ở Biển Đông (29/06)
Trung Quốc bác bỏ nghị quyết của Mỹ về Biển Đông (28/06)
Trung Quốc hoan nghênh kênh đối thoại mới với Mỹ (28/06)
Mỹ phê phán Trung Quốc dùng vũ lực ở Biển Đông (28/06)
Mỹ, Philippines tập trận gần Biển Đông (28/06)
Đặc phái viên Việt - Trung bàn về Biển Đông (26/06)

29/06 China reaffirms position on Diaoyu Islands


English.news.cn   2011-06-29 21:54:58FeedbackPrintRSS
BEIJING, June 29 (Xinhua) -- China reaffirmed its position on the Diaoyu Islands Wednesday, saying that any move by Japan against China's sovereignty over the islands was "illegal and invalid."
"China's indisputable sovereignty over the Diaoyu Islands has been inherent since ancient times," Foreign Ministry spokesman Hong Lei said in a statement.
Media reports said a fishing boat from Taiwan was disturbed Wednesday morning by the Japanese Coast Guard while sailing around Diaoyu Islands.
Editor: Wang Guanqun
Related News