THÁI SINH -Thứ Hai, 05/03/2012, 10:19 (GMT+7)
Đang là mùa đói tháng ba, các cụ xưa có câu "Tháng tám đói qua, tháng ba đói kiệt". Mùa này ở trên núi dư thừa nắng gió, sương mù và giá rét. Khổ nỗi, những thứ đó chẳng làm vơi đi cái đói đang quằn quại trên nhiều gương mặt người trong những ngôi nhà ẩm thấp và tăm tối trên khắp các miền núi cao, khiến cho tháng ba ở đây như dài vô tận…
Tả Thàng là một trong những xã nghèo nhất huyện Mường Khương (Lào Cai), nằm chênh vênh trên ngọn nguồn của dòng sông Chảy. Trừ mấy tháng mùa mưa hầu như quanh năm Tả Thàng vật vã trong khô khát. Đã hơn mười giờ sáng, nhưng mù vẫn dày đặc, mặt đất lớp nhớp, khiến các con đường lên các thôn bản dựng ngược càng trở nên khó đi. Đất dẻo quánh, dính như bánh giầy, khắp các ngả đường nhão nhoét bùn đất trộn lẫn phân gia súc, ra khỏi nhà người ta phải xỏ chân vào ủng. Mọi người ở đây từ lớn bé, già trẻ ai cũng đi ủng, rất ít người đi dép. Đi ủng vừa ấm lại sạch, trông họ chả khác gì dân Cô-dắc sống trên các thảo nguyên của đất nước Ca-dắc-xtan.
Đường lên thôn Tả Thàng |
Hôm qua là ngày cúng rừng, theo phong tục của người Mông, lễ cúng rừng được tổ chức vào đầu hoặc giữa tháng hai âm lịch. Trước đây, mỗi gia đình góp một con gà, chai rượu và một bát gạo mang đến khu rừng cấm đầu bản để làm lễ cúng thần rừng, thần núi và các thần lúa, thần ngô…cầu mong cho mưa thuận gió hoà, ngô lúa tốt tươi, mọi người khoẻ mạnh, gia súc, gia cầm sinh sôi đầy đàn mà không bị dịch bệnh. Trong lễ cúng rừng mọi người cùng nhau cam kết bảo vệ rừng, bởi rừng đã giúp cho họ có cây dựng nhà, cho họ củi đun nấu và sưởi ấm để chống lại giá lạnh tê tái của mùa đông trên núi cao. Ngày cúng rừng được coi là ngày lễ lớn trong năm sau Tết Nguyên đán, mọi người được nghỉ ba ngày, ba ngày lễ không ai được vào rừng chặt cây hay làm bất cứ việc gì, tất cả được nghỉ ngơi, nhà nào cũng mổ gà uống rượu. Sau lễ cúng rừng mọi người mới ra ruộng, lên nương vào rừng bắt đầu vụ cày cấy mới. Bây giờ, các hộ không phải góp rượu, góp gà như trước đây, mỗi hộ đóng dăm sáu chục ngàn cho trưởng bản để mua một con lợn cùng những đồ cúng. Sau lễ cúng mọi người cùng nhau uống rượu, nhảy múa, ca hát tưng bừng cho đến tận sáng hôm sau.
Dọc con đường lên Tả Thàng từng tốp trai gái mặc quần áo đi chơi rất đông, bởi ai cũng biết sau lễ cúng rừng là những ngày lao động vất vả, nhiều gia đình đối mặt với cái đói gay gắt đang chực chờ ngoài cửa. Chủ tịch xã Ma Phứ lắc đầu bảo: Tả Thàng có 3.104 ha, nhưng toàn đồi núi lại thiếu nguồn nước nên chỉ có 30 ha ruộng cấy một vụ, ngô có 286 ha cũng chỉ trồng một vụ thôi. Trên này khô khát lắm, bây giờ chỉ phát cỏ chờ đến tháng tư, tháng năm khi trời có mưa mới làm được đất, gieo được ngô. Năm nào mưa sớm thì được cấy sớm, còn mưa muộn thì phải cấy muộn, tất cả đều trông đợi vào nước trời. Năm nay nhuận hai tháng tư, nên khả năng mưa muộn, mọi nhà ở đây đều đợi mưa để cày cấy, bất kể là đêm hay ngày. Nhiều năm tôi phải cày bừa đêm để giữ nước. Năm nào cấy muộn thì năng suất thấp, thiếu đói là chắc rồi…
Thôn Sú Dí Phìn nằm hun hút dưới chân núi
|
Xã Tả Thàng chỉ có 9 thôn, với 413 hộ thì có tới 309 hộ nghèo, thiếu đói từ 2-3 tháng, trong số đó có khoảng 10% đói triền miên phải chạy ăn từng bữa quanh năm. Sống ở trên núi cao dốc dựng đứng tựa mặt ngựa, mưa xuống đều trôi tuột xuống sông Chảy, những thửa ruộng chiều ngang đám nào rộng nhất thì trải vừa cái chiếu, còn lại chỉ vừa một đường bừa. Đất gan gà cây lúa loi thoi như cỏ may, đám nào gần nhà thì được bón phân chuồng, đám nào xa nhà dốc cao thì bón phân hoá học, cũng chỉ bón "làm thuốc", chứ mấy nhà có tiền để mua phân? Trong 9 thôn chỉ có hai thôn Cán Cấu I và Cán Cấu II có nhiều ruộng, bà con ở đó cuộc sống tạm đủ, còn các thôn trên cao như: Tả Thàng, Sì Khà Lá, Sú Dí Phìn, Lầu Thí Chải, Páo Máo, Bản Phố… chẳng có ruộng, nên chủ yếu trồng ngô. Nơi này người dân ăn mèn mén quanh năm, nhiều hộ không có đủ ngô ăn. Không chỉ thiếu ăn mà còn thiếu nước sinh hoạt, nước sông Chảy xanh ngằn ngặt dưới chân núi nhưng người dân không thể xuống đó múc được, vì dốc cao dựng đứng không có đường xuống, nên người ta chỉ có thể ngắm dòng sông trong sự thèm khát. Gia đình chủ tịch Ma Phứ mùa khô nào cũng phải đi 3-4 cây số để thồ nước.
Tôi theo cán bộ văn phòng Lý Văn Phìn lên nhà Hàng Giàng thôn Tả Thàng chỉ cách trụ sở UBND xã mấy trăm mét. Thật khó tin nổi "ngôi nhà" của vợ chồng Hàng Giàng lại xập xệ chả hơn gì chiếc lều vịt, mái thấp lè tè, vách thưng bằng thân cây bương trống huếch trống hoác, ban đêm từ trong nhà nhìn ra thấy cả sao trời. Trong nhà không có một thứ gì đáng giá ngoài mấy chiếc nồi méo mó, đen nhẻm, một mớ rau cải, mấy cái bát vứt chỏng chơ bên cạnh bao muối trắng.
Lúc này vợ chồng Hàng Giàng không có nhà, chỉ có đứa bé gái chừng 5-6 tuổi mới đi học về, tôi đoán đây là con của Hàng Giàng, nó nhìn tôi lạ lẫm, gương mặt xanh xao vàng vọt, đôi mắt trố ra nom rất sợ. Hàng Vênh là em trai Hàng Giàng ngồi hơ tay trên bếp lửa bảo tôi: Anh Giàng không ở nhà, chắc đi uống rượu nhà ai. Mỗi năm nhà anh ấy chỉ thu được 10 bao lúa, ăn sắp hết rồi giờ chỉ còn nửa bao lúa kia thôi…
Trong ngôi nhà trống rỗng của gia đình Hàng Giàng
|
Tôi nhìn vào góc nhà mới hay trong đó còn một bao lúa đã vơi quá nửa, số thóc ấy chắc chỉ đủ ăn dăm bảy ngày nữa. Từ nay cho đến tháng chín mới tới vụ ngô, còn bảy tháng nữa chả biết vợ chồng Hàng Giàng kiếm cái gì ăn? Tôi mở vung hai chiếc nồi đặt cạnh bếp, một cái còn lại chút cơm nguội nhưng đặc sệt như cháo, còn một cái thì sạch bong, có lẽ đây là suất ăn trưa của đứa con gái?
Chúng tôi qua nhà Hàng Sinh, lúc này chỉ có vợ Hàng Sinh là Thào Dông ở nhà nhưng không biết nói tiếng Kinh, trong nhà còn dăm sáu bao thóc, Lý Văn Phìn bảo: Số thóc này cũng chỉ đủ ăn 4-5 tháng nữa, nhà này thiếu ăn khoảng 2 tháng… Tôi muốn leo lên mấy nhà phía trên cao, đường trong thôn lầy lội, bùn và phân gia súc ngập đến mắt cá chân, lại dốc và trơn mặc dù tôi đã kiếm được một cây gậy nhưng cũng khó mà leo lên được. Thấy thế Phìn bảo tôi: Mọi nhà ở đây cũng thế cả thôi, y giảng mà (như nhau), chả mấy nhà khá hơn đâu…
Cách đây mấy năm tôi lên Pha Long cũng thuộc huyện Mường Khương, dạo ấy đã cuối tháng 5, mùa đói đang gay gắt. Hình ảnh Lù Chẩn Bảo, dân tộc Nùng ở thôn Lao Páo đang ngồi ăn ngô rang thay cơm cùng với hai người hàng xóm cứ ám ảnh tôi mãi. Nhà Bảo nghèo lắm, đã đói từ lâu rồi, mấy ngày chẳng kiếm được gì ăn hôm ấy người hàng xóm mang cho bát ngô, chẳng đủ xay họ rang lên ăn cho qua cơn đói. Vợ Bảo là Vàng Thị Nùng ở nhà đói quá nên trốn sang Trung Quốc lấy chồng từ năm 1991, bỏ lại đứa con gái là Lù Thị Đông khi ấy cháu mới biết ngồi. Trông Bảo tiều tuỵ, hốc hác khó đoán là bao nhiêu tuổi, Bảo lắc đầu: Em chẳng nhớ mình bao nhiêu tuổi đâu, anh cứ ghi là em 40 tuổi cũng được...
Tôi hỏi Ma Phứ: Tả Thàng có phụ nữ đi Trung Quốc lấy chồng không? Ma Phứ đáp: Năm ngoái có hai cô, chẳng biết họ lấy chồng ở tỉnh nào. Từ ngày đi đến nay chưa thấy ai quay trở lại… Sau những xã dọc biên giới, bây giờ đến lượt những phụ nữ ở sâu trong nội địa, trong số phụ nữ ấy có bao nhiêu người bị lừa bán còn lại bao nhiêu người tự nguyện ra đi, phải chăng họ ra đi vì đói?
No comments:
Post a Comment